Ngay từ khi xuất hiện cho đến ngày nay chủ nghĩa tư bản luôn là
đối tượng nghiên cứu và đánh giá của môn xã hội học của thế giới và đến tận hôm
nay vẫn chưa thể có đánh giá nhất quán về vai trò và tương lai của chủ nghĩa tư
bản. Trong thế kỷ 20 đã xuất hiện phong trào cộng sản và nhiều phong trào cánh
tả khác mà mục tiêu cơ bản là để loại bỏ bất công của chủ nghĩa tư bản. Với thất
bại của những nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản cổ điển, với độ lùi nhất định về
thời gian sự đánh giá về chủ nghĩa tư bản đã có một nội dung mới khách quan hơn
và toàn diện hơn:
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội
loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong
lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã
hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình
thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế
hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến,
quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan
ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ chủ nghĩa
phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Chủ nghĩa tư bản không đồng
nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa
tư bản là một trong các hình thái kinh tế của sản xuất tư hữu, và đối lập với
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công cộng. Các chính sách an sinh xã hội
trong nền kinh tế tư bản không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng
không phải biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một
biểu hiện của một nền kinh tế được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước.
Đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do sản xuất và kinh doanh được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu
tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận
thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia
của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá
trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là
thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các yếu
tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động
lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng
thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh tranh của chủ
nghĩa tư bản thành phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng
với mô hình kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối của
nhà nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có giảm xuống
nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm tỷ trọng là thành
phần lớn nhất trong nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng động,
lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần kinh tế
nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực
lượng lao động tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các
ngành cần thiết nhưng khó sinh lời.
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do kinh doanh lấy công nghệ,
máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất chính và là nền kinh tế định hướng
sang công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu tố
lợi nhuận và thị trường điều phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ, tri thức
nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có xu hướng hướng
đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở rộng và gắn liền với cách
mạng khoa học-công nghệ. Việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
doanh là lợi ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh
giành lợi nhuận.
Mua bán sức lao động là đặc điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc kinh tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể thanh lý hợp đồng lao động với người thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê lao động khác và nếu muốn cùng với có khả năng hoặc may mắn thì cũng có thể trở thành chủ doanh nghiệp.
Cả xã hội là một thị trường lao động lớn và thường thì cung ứng
lao động nhiều hơn yêu cầu lao động do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường
tồn tại nạn thất nghiệp. Tuy nhiên nguy cơ của nạn thất nghiệp đóng vai trò
kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong cuộc chạy
đua bảo vệ chỗ làm việc, đó chính là một trong những động lực giúp nên khoa học
kỹ thuật và cả con người trong xã hội tư bản không ngừng phát triển theo thời
gian.
Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư
nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ
nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự phát theo quy luật của thị
trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh tế thị trường..
Chính vì đặc điểm kinh tế cơ bản là quyền tư hữu đối với phương
tiện sản xuất và kinh tế thị trường tự do kinh doanh nên đã kéo theo các đặc điểm
khác về mặt luật pháp, triết học và tâm lý của xã hội tư bản chủ nghĩa
Mọi giá trị kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội đều có thể và phải được lượng giá bằng tiền tệ trong các mối quan hệ xã hội, dựa trên sự lượng giá đó để đánh giá giá trị đối với xã hội, do đó sự lượng giá các giá trị này hoàn toàn mang tính thị trường và thay đổi rất nhanh theo thời gian, xã hội rất năng động như một thị trường các giá trị lên giá và xuống giá rất nhanh.
Về phương diện nhân quyền, đối với xã hội tư bản chủ nghĩa cá nhân là chủ thể trung tâm của xã hội: là người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần và là người thụ hưởng các thành quả đó. Cá nhân có trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội và có các quyền bất khả xâm phạm đó là nhân quyền. Quyền lợi của cá nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa là tối cao nếu nó không phủ định quyền của cá nhân khác. Ở đây khái niệm cá nhân là rất cụ thể, mọi người đều được hưởng đầy đủ và trọn vẹn mọi quyền tự do dân chủ như đã được quy định trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền.
Vì nền tảng kinh tế tư bản chủ nghĩa khước từ mô hình chỉ huy tập
trung, kinh tế tư bản đề cao sự hành động sáng tạo của cá nhân nên tâm lý xã hội
cũng xa lạ với những giáo điều là "chân lý" không cần bàn cãi. Các quốc
gia tư bản chủ nghĩa không có giáo lý chung cho "chủ nghĩa" của hệ thống
này. Xã hội tư bản chủ nghĩa không bắt buộc công nhận bất cứ "chủ
nghĩa", học thuyết hoặc nhân vật thần thánh nào. Thượng đế cũng bị phán
xét, mọi lý thuyết xã hội, chính trị hoặc lý luận của các tổ chức và cá nhân đều
phải qua thực tế kiểm nghiệm và phán xét công khai và được chấp nhận hoặc loại
bỏ thông qua bầu cử của hệ thống chính trị. Do đó chế độ chính trị của xã hội
tư bản chủ nghĩa thường dựa trên chế độ đa đảng cạnh tranh đa đảng và đa nguyên
chính trị. Đây là đặc điểm tư tưởng chính trị khác nhau cơ bản của một nhà nước
tư bản chủ nghĩa với một nhà nước cộng sản.
Lịch sử đã ghi lại những tiến bộ tuyệt diệu đạt được nhờ chủ nghĩa tư bản trong một khoảng thời gian ngắn ngủi – sự cải thiện ngoạn mục các điều kiện tồn tại của con người trên trái đất.
Chuyện ấy không bị che giấu, tránh né, không bị bác bỏ bởi đủ những tuyên truyền từ chế độ công sản, những kẻ thù của chủ nghĩa tư bản. Nhưng điều cần đặc biệt nhấn mạnh là một thực tế rằng tiến bộ này đã đạt được bởi những phương thức không cần có sự hy sinh.Tiến bộ không thể đạt được bằng việc bắt người ta phải thiếu thốn, bằng việc ép cho ra một lượng “thặng dư xã hội” từ những nạn nhân chết đói như trong chế độ cộng sản.
Tiến bộ chỉ có thể đến từ thặng dư cá nhân, tức là từ công việc, năng lượng, sự dư thừa sáng tạo của những con người mà năng lực của họ sản xuất ra nhiều hơn mức tiêu dùng cá nhân của họ đòi hỏi, những người có khả năng về trí tuệ và tài chính để tìm kiếm cái mới, để cải thiện cái đã biết, để tiến lên.
Trong một xã hội tư bản, nơi những con người đó được tự do hoạt động và mạo hiểm, tiến bộ không phải là chuyện hy sinh bản thân mình cho một tương lai xa vời nào đó, nó là một phần của thực tại mà người ta đang sống, là cái bình thường và tự nhiên, người ta đạt được nó như người ta sống và khi người ta sống – và hưởng thụ - cuộc sống của mình.
II.
Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ
Chủ nghĩa tư bản đỏ cũng là một hình thái kinh tế – xã hội của
xã hội loài người, xuất hiện đầu thế kỷ 20 cũng tại Âu sau cuộc cách mạng vô sản
vào tháng 10 năm 1917 tại Nga rồi dần loang đến các nước láng giềng ở Đông Âu rồi
Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba và một số quốc gia Châu Phi. Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản đỏ từ chủ nghĩa tư bản hay phong kiến không do một lý thuyết
gia nào xây dựng mà đó là một sự phát triển tự nhiên và tất yếu của xã hội dưới
tác động của hệ thống chính trị. Chủ nghĩa tư bản đỏ không đồng nhất với chủ
nghĩa xã hội dù nền tảng là kinh tế công hữu hóa, nói cách khác chủ nghĩa tư bản
đỏ là một biến thái của Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Bởi trong thực tế, không có Chủ Nghĩa Xã Hội hay Chủ Nghĩa Cộng Sản, nơi không có sự bất bình đẳng về các thành phần kinh tế xã hội, không có quyền tư hữu về của cải vật chất hay tư liệu sản xuất, không có kẻ giàu người nghèo và không có chế độ người bóc lột người, không có sự dị biệt về giai cấp xã hội, nơi của cải vật chất thuộc về sở hữu nhà nước và con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu: Tức là thích thì lao động sản xuất, không thích thì cứ nghỉ ngơi vui chơi giải trí, và muốn hưởng thụ những thành quả lao động của xã hội bao nhiêu là tùy thích… Tất cả những điều này là hoang đường, là hoang tưởng, là phi thực tế, là trái với quy luật phát triển tự nhiên, bởi bản năng gốc của con người là SỞ HỮU. Ngay từ khi vừa lọt lòng mẹ, một đứa trẻ chưa có nhận thức về con người hay xã hội mà đã biết sở hữu bầu vú mẹ, và quyết chiếm hữu độc quyền bầu vú mẹ, chống lại mọi sự “xâm phạm” của những đứa trẻ láng giềng rồi, tất nhiên khi càng lớn lên, con người càng nhận thức về những nhu cầu khác của đời sống thì tính sở hữu càng lớn, càng mạnh mẽ, càng sâu sắc hơn. Những xung đột của các ấu nhi trong các vườn trẻ, mẫu giáo, để lại những vết cắn, vết quào trên mặt nhau khi tranh giành đồ chơi, ghế ngồi… cũng là một biểu hiện của quyền tư hữu.
Bởi trong thực tế, không có Chủ Nghĩa Xã Hội hay Chủ Nghĩa Cộng Sản, nơi không có sự bất bình đẳng về các thành phần kinh tế xã hội, không có quyền tư hữu về của cải vật chất hay tư liệu sản xuất, không có kẻ giàu người nghèo và không có chế độ người bóc lột người, không có sự dị biệt về giai cấp xã hội, nơi của cải vật chất thuộc về sở hữu nhà nước và con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu: Tức là thích thì lao động sản xuất, không thích thì cứ nghỉ ngơi vui chơi giải trí, và muốn hưởng thụ những thành quả lao động của xã hội bao nhiêu là tùy thích… Tất cả những điều này là hoang đường, là hoang tưởng, là phi thực tế, là trái với quy luật phát triển tự nhiên, bởi bản năng gốc của con người là SỞ HỮU. Ngay từ khi vừa lọt lòng mẹ, một đứa trẻ chưa có nhận thức về con người hay xã hội mà đã biết sở hữu bầu vú mẹ, và quyết chiếm hữu độc quyền bầu vú mẹ, chống lại mọi sự “xâm phạm” của những đứa trẻ láng giềng rồi, tất nhiên khi càng lớn lên, con người càng nhận thức về những nhu cầu khác của đời sống thì tính sở hữu càng lớn, càng mạnh mẽ, càng sâu sắc hơn. Những xung đột của các ấu nhi trong các vườn trẻ, mẫu giáo, để lại những vết cắn, vết quào trên mặt nhau khi tranh giành đồ chơi, ghế ngồi… cũng là một biểu hiện của quyền tư hữu.
Sau khi cướp chính quyền bằng bạo lực cách mạng, chính quyền cộng
sản tiến hành cuộc cách mạng vô sản nhằm xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, xóa bỏ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất bằng cách tống giam các nhà
tư sản mà họ cho là "bóc lột nhân dân" vào các trại cải tạo, tịch biên nhà cửa và công hữu hóa
nhà máy, công ty, xí nghiệp của các tập đoàn tư bản, chuyển hóa quyền sở hữu
tư nhân trước đây sang quyền sở hữu tập thể và tiếp tục vận hành, sản xuất theo
cơ chế mới, cơ chế quản lý phương tiện sản xuất và lực lượng sản xuất theo đường
lối XHCN, rồi bế tắc vì đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa là một con đường ảo chỉ tồn tại trong trí
tưởng tưởng của Karl Marx, là một nhà hoang tưởng, bị bệnh tâm thần phân liệt rất
nặng, vì vậy mà sản xuất đình trệ, kinh tế suy sụp chạm đáy, xã hội khủng hoảng
thiếu nghiêm trọng, con người phải ăn thức ăn gia súc để tạm sống qua ngày. Để
cứu vãn tình thế đó, nhà cầm quyền vô sản phải thực hành chính sách Perestroyka (перестройка) có nghĩa là "cải tổ" hay “đổi
mới” mà theo nhận định của Gorbachov, một lãnh tụ của nhà nước vô sản Nga lúc bấy
giờ là: “Tính ưu việt của cơ chế thị trường đã
được biểu hiện trên quy mô quốc tế, và vấn đề giờ đây là, liệu có thể đảm bảo
được an toàn về mặt xã hội ở một mức độ cao trong các điều kiện của cơ chế thị
trường. Câu trả lời như sau: không những chỉ có thể đảm bảo được điều đó, mà nền
kinh tế thị trường được điều tiết sẽ cho phép tăng của cải quốc gia lên tới một
mức độ mà mức sống của mọi người cũng sẽ được nâng cao. Và tất nhiên quyền lực
nhà nước nằm trong tay chúng ta”. Như vậy, sau ngót 70 năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đã phá chủ nghĩa tư bản đang giãy chết, những người cộng sản đầu sỏ bắt
đầu nhận thức ra tính ưu việt của Chủ Nghĩa Tư Bản, và quyết định đổi mới bằng
cách quay về chốn cũ, đó là bối cảnh ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản đỏ. Tuy nhiên,
dù là quay về, dù là trở lại “mái nhà xưa” nhưng Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ không phải
là Chủ Nghĩa Tư Bản, bởi Chủ Nghĩa Tư Bản là sự ra đời một cách tự nhiên theo sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và của công nghệ máy móc hiện đại, còn Chủ
Nghĩa Tư Bản Đỏ là con đẻ của Chủ Nghĩa Xã Hội.
Đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản đỏ là nhìn nhận quyền sở hữu
tư nhân của các nhà tư bản đỏ, tức là các quan chức chính phủ, lãnh đạo các cấp
chính quyền từ trung ương đến địa phương là những cổ đông của những tài sản gồm
các công ty xí nghiệp, các tập đoàn các trusts được quốc hữu hóa trước đây
trong cuộc cách mạng vô sản, đến khi perestroika, tức đổi mới về đường lối
chính trị và kinh tế, thì các khối tài sản và các công ty xí nghiệp, các tập
đoàn các trusts được cổ phần hóa cho giai cấp lãnh đạo và tất nhiên quyền tự do
sản xuất và kinh doanh của giai cấp này cũng được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp và được coi như một quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người tư bản đỏ.
Trong
hình thái kinh tế của chủ nghĩa Tư Bản Đỏ, các cá nhân
dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư
nhân, các
tập đoàn để thu lợi nhuận không qua cạnh tranh trong các điều kiện của
thị trường
tự do, mà hoàn toàn độc quyền: Các công ty tư của các nhà tư bản đỏ tạo
thành
thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế
chủ
nghĩa tư bản đỏ. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu đặc quyền của giai
cấp thống trị, kinh doanh độc quyền, không cạnh tranh, bất bình đẳng
trong
phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản đỏ.
Điểm khác biệt giữa nền kinh tế tập trung XHCN với nền kinh tế
Tư Bản Đỏ đó là sự thừa nhận tồn tại các giai cấp, cũng như thừa nhận chế độ người bóc
lột người trong xã hội: Giai cấp thống trị bao gồm các lãnh đạo đảng và nhà nước
và thân bằng quyến thuộc của họ, tồn tại theo hình thức “cáo mượn oai hùm” gồm
những nhà tài phiệt, những ông bầu, là giai cấp bóc lột, đây chính là những nhà Tư Bản Đỏ, họ có
toàn quyền quy hoạch các khu đô thị sinh thái, các khu công nghiệp, các khu chế
xuất, các sân gofl và họ có toàn quyền giải tỏa, cưỡng chế, thu hồi đất đai nhà cửa,
đưa dân cư đến những khu tái định cư mới, và họ có toàn quyền định mức giá đền bù cho
các loại đất mà họ thu hồi. Giai cấp bị trị là toàn thể nhân dân nghèo, không đảng
viên, đặc biệt là những thành phần có liên quan đến các tổ chức tôn giáo hay thân nhân của những
người từng tham gia trong chính quyền cũ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở Miền
Nam trước đây.
Xuất Khẩu Lao Động, tức là mua bán sức lao động theo hình thức buôn bán nô lệ thời hiện đại là
đặc điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản đỏ. Giữa người thuê lao động và người
lao động không ràng buộc kinh tế với
nhau bằng hợp đồng lao động, mà hợp đồng lao động chỉ được ký kết giữa những
nhà Tư Bản đỏ với người thuê lao động là những chủ cả của các công ty, xí nghiệp tư bản ngoại
quốc: Người lao động được đối xử như nô lệ thời Trung cổ và chủ doanh nghiệp
mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Người lao nô không thể
thanh lý hợp đồng lao động với người thuê lao động ngay cả khi bị tai nạn lao động
hay ốm đau bệnh tật, bởi mọi đặc quyền đặc lợi thuộc về các nhà tư bản đỏ, tức
là các lãnh đạo đảng và nhà nước.
Mọi giá trị kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội đều không được
lượng giá bằng tiền tệ trong các mối quan hệ xã hội, Không dựa trên sự lượng
giá đó để đánh giá giá trị đối với xã hội, mà mọi sự lượng giá các giá trị này
hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo và quy định của đảng và nhà nước, mà đại diện là của các nhà tư
Bản Đỏ.
Về phương diện nhân quyền, đối với xã hội tư bản đỏ, lãnh đạo đảng và nhà nước là các chủ thể trung tâm của xã hội: Họ được xem là người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần và là người thụ hưởng các thành quả đó. Nhân dân không có một vai trò gì trong xã hội, nhân dân là giai cấp bị trị, cho nên họ không có bất cứ một quyền tự do nào. Xúc phạm đến thân thể hay nhân phẩm của các nhà Tư bản đỏ hay thuộc hạ của họ, sẽ bị kết tội chống người thi hành công vụ có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 18 năm. Người lại các nhà tư bản đỏ và thuộc hạ của họ có quyền trấn áp tất cả mọi người dân, có thể dùng các điều 79, 88… của bộ luật hình sự để quy kết nhân dân tội tuyên truyền chống nhà nước hoặc âm mưu lật đổ chính quyền, và họ có thể bị giam tù từ 4 năm đến 20 năm hoặc từ chung thân đến tử hình.
Trong xã hội tư bản đỏ, nơi những con người bị tước đoạt hết mọi tự do hoạt động hay mạo hiểm, tiến bộ nhất định phải là chuyện hy sinh bản thân mình cho một tương lai xa vời nào đó, nó không phải phần của thực tại mà người ta đang sống, mà người ta chỉ có thể đạt được nó khi người biết dân thân, biết hy sinh, bởi tự do, dân chủ nhân quyền chỉ là đặc quyền của giai cấp thống trị, tức là của tập đoàn tư bản đỏ, còn đối với người dân, với giai cấp bị trị thì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền chỉ tồn tại trong giấc mơ của họ mà thôi.
Rác, một nguồn tài nguyên quý giá của dân nghèo, nguồn sống chủ yếu của giai cấp bị trị |
Một số người cho rằng con đường phát triển Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ
là một đường tròn khép kín, đi từ Chủ Nghĩa Tư Bản đến Chủ Nghĩa Tư Bản nhưng
vì đường kính của vòng tròn quá lớn, nên những người cộng sản lầm tưởng là họ
đang đi trên đường thẳng. Điều này không hoàn toàn đúng, vì thực ra khi quay lại
với Chủ Nghĩa Tư Bản, những nhà lãnh đạo đảng và nhà nước đã thâu tóm hết mọi
quyền lợi cả vật chất lẫn tinh thần, và chỉ có giai cấp thống trị là đối tượng
duy nhất được hưởng lợi trong xã hội, còn nhân dân là giai cấp bị trị, là nạn
nhân của đói nghèo, của mọi đàn áp, bóc lột và mọi sự tước đoạt từ của cải đến các quyền tự
do dân chủ, cũng như quyền làm người. Và một điều dễ nhận thấy đó là người cộng
sản rất giỏi dùng các uyển ngữ để đánh tráo khái niệm, chẳng hạn trong quá khứ,
họ đã dùng “chuyên chính” để thay cho “độc tài” khiến cho toàn dân Bắc Kỳ ai
cũng ủng hộ “chuyên chính” nhưng đả đảo “độc tài” và hiện nay cũng để tranh thủ
sự ủng hộ của nhiều người, họ đã thay “Chủ Nghĩa Tư Bản Đỏ” bằng “Nền Kinh Tế
Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Nhờ chính sách đánh lận con đen
này mà chủ nghĩa tư bản đỏ hiện vẫn đang phát triển, và những nhà Tư Bản Đỏ vẫn
đang sống hiên ngang, đang rất an nhiên tự tại trên đầu trên cổ của cả 95 triệu người
dân Việt, mà không ít là các nhân sỹ trí thức có đầy đủ học hàm học vị.
Thương thay!
No comments :
Post a Comment