Saturday, February 27, 2016

KEITH WILLIAM NOLAN – HUẾ, TRẬN ĐÁNH MẬU THÂN 1968 - CHƯƠNG IV - V - VI


CHƯƠNG 4: ĐÁNH CHIẾM TỪNG NHÀ
Từ Trường Janne D’ Arc tới Nhà Thờ.
Trong cuộc chiến tranh xử dụng mìn bẫy, TQLC nếu có ai bị thương nhẹ cũng hy vọng được nghỉ đôi ba ngày tại trạm nghỉ trước khi trở lại chiến trường. Tuy nhiên, trong cuộc chiến trên đường phố Huế, bác sĩ và y tá tại trạm xá MAC.V đã phải khó khăn khi khuyên thương binh khoan trở lại chiến trường. Mấy anh lính trẻ khi bị thương về trại nghỉ một lúc rồi quay trở lại trạm xá, nói với y tá bây giờ họ đã khỏe, để được ra đơn vị trở lại. Trung úy Ray Smith, đại đội trưởng Alpha 1/1 thế cho Batcheller, sau khi cuộc chiến chấm dứt vài tuần lễ, viết thư cho đại úy cũ của anh ta như sau: “Nếu ai ở với TQLC tại Huế trong những ngày đó, không thể không thương họ. Vài người lính của tôi bị thương nơi chân và tay, đi cà nhắc vòng quanh để tìm tôi xin được ở lại, không phải tải thương. Họ chiến đấu thật dũng cảm, rất hòa thuận với nhau, và không khi nào tôi nghe một lời than phiền. Đó là tinh thần TQLC trong trận đánh Huế.”
Một trong những yếu tố quan trọng nhất là thái độ năng nổ dậy lên từ ngày họ rời chiếc xe bus ở trường huấn luyện. Họ thấy họ là chiến sĩ, là kẻ thắng, và là “Những Phần Tử Tinh Túy”. Họ có lòng tin tưởng cấp chỉ huy, – từ những người chỉ huy cấp tiểu đoàn cho tới anh trung sĩ hay trung úy, thiếu úy trẻ chỉ huy trung đội. Tất cả những ai ngay bên họ trên đường phố, cùng nhau chiến đấu, cùng bị thương vong. Các người lính trẻ TQLC cũng tự hào đặc biệt vì họ là bộ binh, và cảm nhận trái ngược với lòng tự hào là không ai tệ hơn người lính chiến. Thêm vào đó họ có niềm tự hào căn bản về binh chủng TQLC Hoa Kỳ và đất nước họ.
Nhưng niềm tự hào đó chỉ được giải thích một phần. Lý do cao thượng vì tự do cho Miền Nam VN không là động cơ thúc đẩy người lính TQLC xông pha lửa đạn để cứu một đồng đội bị thương. Một nhà chính trị ở quê nhà ca ngợi các thanh niên của chúng ta ở ngoại quốc không thể là lý do để cho một người lính từ chối di tản sau khi bị thương một hai lần. Ba, má và apple-pie chỉ là một việc không đáng kể với một người lính TQLC muốn giữ cân bằng giữa một trong những hành động kinh khiếp nhất trong chiến tranh Việt Nam. Điều gì trong những yếu tố đó đã xẩy ra ở Huế đơn giản chỉ là tình chiến hữu.
Có một ít kinh nghiệm nhân bản so sánh được trong tình thương đồng đội và anh em của người lính TQLC khi họ chiến đấu. Nó không phải là vấn đề gốc gác như thế nào, màu da ra sao, học hành tới đâu, hoặc cha mẹ giàu có như thế nào. Tất cả vấn đề là người sống chung trong tiểu đội, trung đội. Toàn bộ vấn đề là giúp đỡ nhau, chia xẻ với nhau, giúp nhau bảo toàn tính mệnh khi súng bắt đầu nổ. Đêm đêm, họ ngủ chung với nhau trong một hầm chiến đấu, cùng nhau chịu đựng cái nắng như thiêu như đốt hay cái giá lạnh của những cơn mưa phùn gió bấc, ì ạch lội qua những đám ruộng sình và cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong chiến đấu, mỗi người lính TQLC đánh giặc hết sức mình vì họ không thể để cho bạn mình ngã xuống. Hy sinh, không có gì thắc mắc. Đó là chân lý của họ trong cuộc Thế Giới Chiến Tranh thứ Hai, trong Chiến Tranh Cao Ly và một lần nữa, trong Chiến Tranh Việt Nam.

Nhưng ở Huế, có một khúc quanh đặc biệt: Hận thù. Trước khi đánh nhau, có thể người lính TQLC chưa bao giờ thấy một anh lính CSBV hay Việt Cộng trong trận đánh. Điều họ biết là việc giết chóc tàn ác và việc làm thương tật ghê gớm bằng mìn bẫy. Họ đã nếm mùi kinh hãi mà chẳng làm gì chống lại được. Họ thấy thất vọng trong việc đi tuần trên một con đường mà chẳng phát hiện được gì hết, bị bắn sẻ từ trong làng bắn ra mà không được bắn trả vì sợ thương vong cho người dân. Tuy nhiên, ở Huế, họ cảm nhận được những gì họ đang làm: Mặt đối mặt với kẻ thù – Họ có thể giết kẻ thù. Đại úy Pyle từng nói: “TQLC ở Huế thành công. Đó là thời điểm trả lại cái thua ở An Hòa.”
Tinh thần cao là động cơ tốt đẹp cho việc thành công của người lính TQLC. Tiểu đoàn trưởng Gravel nói: “Sự đóng góp lớn nhứt của những người lính ấy, không phân biệt cấp bậc, đã hoàn thành ở một mức độ ít thấy. Chẳng hạn như những trung úy đại đội trưởng, các trung sĩ trung đội trưởng, hạ sĩ và tiểu đội trưởng đã hoàn thành tốt đẹp trách nhiệm của họ. Binh sĩ của tôi làm được nhiều điều, nhiều phương cách mà quí vị không thể hy vọng nơi những người lớn tuổi hơn và chín chắn hơn, thực hiện chính xác những công việc hết sức nguy hiểm… Tôi không lo lắng gì hay chỉ lo chút ít vì tôi biết, tôi cảm nhận những gì họ làm, họ thực hiện là hết sức tốt đẹp mà không cần chỉ dẫn gì nhiều.”
Dale Dye, phái viên báo chí Sư đoàn 1 TQLC đã tìm hiểu cẩn thận và kết luận như sau: “Hầu hết chúng ta đều có băng cứu thương để băng bó những vết thương nhỏ. Chúng ta đều bẩn thỉu dơ dáy mà tôi nghĩ chắc giống như những tay kẻ cướp người Mê-Xi-Cô, nhưng với TQLC thì đó là cái dơ dáy trong sự huy hoàng. Tinh thần của họ là tinh thần đặc biệt của người lính TQLC trong bất cứ một cuộc chiến đấu gian khổ nào. Họ chưởi thề, họ khóc và họ nguyền rủa mọi thứ từ cấp chỉ huy cho tới người lính CSBV hay nguyền rũa ngay cả khí hậu khắc nghiệt. Nhưng tôi nghĩ tinh thần là một ngôn từ không đúng, không nói được hết. Đó là một thứ cay đắng giai dẵng, là điều quyết định để thấy việc đánh nhau chẳng là gì cả. Chúng ta quá chán nãn, bị căng ra quá lâu do những thúc ép triền miên và tất cả chúng ta đều yếu đuối cam chịu. Tôi không nghĩ bất kỳ ai trong chúng ta nghĩ rằng mình sẽ còn sống sau cuộc chiến đấu, tôi không nghĩ ai trong chúng ta sẽ trở thành đê tiện bằng cách nầy hoặc bằng cách khác.”
Bên cạnh tình chiến hữu, các TQLC Mỹ ở trận đánh Huế có một điểm chung – ghét quân CSBV và Việt Cọng. Vấn đề nầy không phải nhìn theo nhãn quan chính trị, mà phần lớn là vì cá nhân. Đó là vì bạn bè họ chết một cách thảm khốc. Vì vậy, họ cho rằng quân địch là những kẻ dơ dáy, ti tiện và bướng bỉnh. Vì vậy, họ có bị giết cũng không có chi ân hận và về sau có thể trở thành một câu nói đùa. Đó là điều không thể không quan tâm hay từ chối, làm ngơ. Nhưng người ta có một cảm nhận khác đối với kẻ thù – một sự quan tâm bất đắc dĩ – Đó là những người Việt Nam ốm yếu, nhỏ bé chiến đấu rất mãnh liệt và ít khi chịu thua cuộc. Trung sĩ Dye cũng kết luận như vậy: “Quân CSBV ở Huế là một thứ con hoang tận tụy và chiến đầu cừ. Chúng nó thì cố thủ trong khi chúng ta thì di động suốt ngày và chuyển qua tấn công vào ban đêm. Chúng ta thường phải tìm cách lấy lại khu vực mà chúng ta đã giành được ngày hôm trước vì ban đêm quân CSBV đã chiếm lại, chúng ta không đủ quân để bảo vệ những gì giành được. Tôi nghĩ rằng người lính CSBV vừa quá khích mà cũng vừa hèn nhát.
Về điều tôi nghĩ, đáng nguyền rủa là có quá nhiều những tên quá khích. Tuy nhiên, sự thực rõ ràng là chúng ta giỏi hơn họ.”
Y Sĩ Hải Quân Robert C. Hamilton nhận nhiệm vụ tại Đại đội Bravo, Tiểu đoàn Quân y số 1, Sư đoàn 1/ TQLC, có đến thăm thành phố Huế trước khi trận đánh Huế bắt đầu. Ngày Chủ Nhật trước Tết, ông ta cùng tài xế của ông và một sĩ quan trẻ đặc trách công tác Dân Sự Vụ thực hiện một chuyến du ngoạn Huế. Họ uống cà-phê ở một tiệm cà-phê ngoài trời; chụp hình trong Đại Nội cho đến khi lính canh đến đuổi họ đi và cạn cốc với đại úy Stephen Bernie trong câu lạc bộ MAC.V. Ông nầy là y sĩ tại trạm xá tại đây.
Mọi việc đều hết sức bình thường. Y sĩ Hamilton nghĩ qua đêm Tết đầu tiên ở Phú Bài với mấy người lính TQLC của ông và y tá Hải Quân trong khi hỏa tiển nổ.
Sau đó, tướng LaHue gọi ông ta, yêu cầu ông tường trình sự việc tại trạm chỉ huy của ông. Lúc đó là khoảng nửa đêm, điện bị mất. Tuy nhiên Hamilton tìm được một người tài xế TQLC gốc da đỏ, dám lái xe trong bóng đêm đen như mực đưa ông ta vào Bộ Chỉ Huy. Cũng từ đó, Hamilton là sĩ quan quân y của LLDN X-Ray. LaHue giải thích cho ông ta hay có chuyện lôi thôi ở Huế nhưng ở đó chẳng có đơn vị nào có y sĩ cả. Bằng một sự trùng hợp kỳ cục, các y sĩ tham dự một hội nghị về y học ở Đà-Nẵng khi Tết bắt đầu nên họ không trở về đơn vị kịp. Tướng LaHue hỏi Hamilton có thể làm gì được bây giờ.
Hamilton trả lời có thể gọi một toán gồm 20 nhân viên trợ y của Tiểu đoàn 1 Quân Y ở Đà-Nẵng. Tuy nhiên, ông ta nói nếu tình hình không quá nghiêm trọng thì ông cùng với ít y tá đến trạm y tế MAC.V ở Huế để giúp Bernie chờ khi bác sĩ giải phẩu của tiểu đoàn tới. Tướng LaHue đồng ý.
Hamilton gặp sĩ quan Quân Vận để sắp đặt chuyến đi Huế rồi quay lại đơn vị để lấy y tá đi theo ông ta. Nhiều người không bằng lòng. Ông bèn ra lệnh cho y tá trưởng ở lại coi sóc mọi việc khi ông vắng mặt. Rồi ông ta tìm một y tá trẻ, giải thích với anh nầy tình hình mọi sự. Anh nầy hỏi Hamilton có đi Huế không, nếu đi thì anh ta xin đi theo. Hamilton nói rất vui nếu y tá nầy cùng đi với ông. Xong, ông ta chọn anh y tá nầy cùng hai người nữa, một ông già của đại đội, người được họi là Pappy Reinhart.




























Sáng ngày 4 tháng Hai, họ lên đường. Hôm đó, có hai chuyến xe đi Huế. Họ theo chuyến đầu, khoảng 30 xe GMC chở đồ tiếp liệu và đạn dược. Nhân viên ẩm thực và thư ký cầm M-16 đi theo giữ an ninh. Đó không phải là chuyện không bình thường. Châm ngôn của TQLC là mỗi người một tay súng, dù đảm trách công việc gì chăng nữa. Hamilton ngồi trên thùng xe GMC chở đầy lựu đạn M-26.
Vừa qua khỏi sông Phú Cam (An Cựu), qua chợ An Cựu thì từ những toà nhà hai bên đường, quân CSBV nổ súng.
Hamilton ngồi trên một thùng chở lựu đạn trong khi lính bếp và văn phòng kê súng lên lưng ghế bắn trả; tài xế cho xe chạy nhanh hơn. Họ tới MAC.V, xe chạy vào trong, Hamilton cùng các y tá nhảy xuống xe. Y sĩ Bernie cười đón họ và đứng vòng quanh nói chuyện với nhau. Hamilton cảm thấy an tâm khi được ở trong những bức tường thành nầy.
Bất thần địch quân pháo kích bằng hỏa tiển.
Đạn pháo bay qua bức tường nổ trên mái một toà nhà, mảnh đạn và đá cát bay xuống họ. Chẳng ai phản ứng gì kịp đành đứng chịu trận. Khi Hamilton đưa mắt nhìn quanh, ông ta thấy chỉ có một y tá không bị thương. Bernie thì bị một mảnh đạn nhỏ nơi tay, một người trong nhóm họ là một nhân viên dân sự của chính phủ bị chảy máu đầu vì mảnh ngói vỡ, máu ra nhiều, người ta vội vàng đưa ông vào phòng cứu cấp.
Hamilton, 34 tuổi, bác sĩ thực hành ở Chicago, bị động viên sáu tháng trước, nhận được vài sự chào đón nồng nhiệt khi tới đây. Hôm nay chỉ mới là ngày đầu tiên: Hamilton, Berinie, và tất cả y tá còn lại của TQLC, các y sĩ băng bó chăm sóc cho tất cả các TQLC bị thương đang nằm ở đây rồi khi có thời gian nghỉ ngơi, Hamilton tới câu lạc bộ của đại tá Hughes ở bộ Chỉ huy. Người ta cho biết chuyến xe chiều hôm đó, sau chuyến của Hamilton đã bị phục kích dữ dội.
Chuyến xe buổi chiều do trung úy Terry Charbonneau, 25 tuổi, quê ở Detroit, trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại đội Charlie, Tiểu Đoàn Quân Vận số 1, Sư Đoàn 1 TQLC chỉ huy.
Tại trại Evans của Kỵ Binh 1, anh ta lúng túng vì một trung đội xe vận tải từ một đại đội khác tới trong khi một tướng lãnh biểu anh ta tìm cách giải quyết việc tài xế xe tải thiếu hụt. Charbonneau phải nhờ tới hậu cứ tiểu đoàn quân vận đóng ở Giạ Lê, nhưng tài xế và xe ở trại nầy lại kẹt ở Phú Bài. Thực ra thì anh ta cũng chẳng làm gì được hơn. Trong dịp Tết, trung đội của anh được phái đi chung với các đơn vị khác và hiện đang kẹt ở Huế. Một vài xe GMC từ căn cứ tiếp liệu đến với một số ít lính tăng cường trên xe. Có người không có nón sắt và áo giáp. Anh ta hỏi thì họ cho biết trong kho hết nón sắt và những thứ khác không đáng quan tâm lắm. Anh ta biểu họ vào trạm xá xin mượn nón sắt trong đó để đi Huế.
Charbonneau biết đại úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, anh nầy tổ chức đoàn xe bằng người của Đại Đội A và B và vài người trong Trung Đội 2 TQLC của chính anh ta. Anh ta đi kiếm đại úy nầy và hỏi đoàn xe anh ta đi đâu? Huế. Charbonneau muốn đi cùng, nhưng viên đại úy hỏi anh ta có biết ở Huế đang đánh nhau không? Anh ta biết. Lala, nhân viên anh ta vừa được thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc cũng muốn đi. Viên đại úy nhìn anh ta, nói: “Được rồi, anh sẽ là người đi sau”. (Chịu trách nhiệm an ninh mặt hậu đoàn xe). Charbonneu nhận lãnh trách nhiệm và cùng mấy người trong nhóm lên chiếc xe thứ hai, ngồi cạnh tài xế, xạ thủ đại liên 50 và hiệu thính viên. Đằng sau anh ta, trung đội y tá trên chiếc xe chót, một xe cần trục. Hai chục chiếc xe chở đầy đạn dược, thực phẩm, y tế, v.v… cùng nhân viên văn phòng, hỏa đầu quân, thợ máy, nhân viên tiếp liệu đi theo với nhiệm vụ giữ an ninh.
Họ lên đường lúc quá trưa một chút. Viên đại úy ngồi trên xe Jeep đi đầu. Chạy trên QL 1. Họ chẳng thấy ai. Dân chúng núp trong nhà. Có một thằng bé Việt Nam đứng bên đường, hoàn toàn một mình. Khi đoàn xe đi qua thằng bé đưa ngón tay cái lên ra hiệu số 1 (tốt).
Charbonneau nghĩ rằng đó là ấn tượng đẹp. – thằng bé và gia đình nó sẽ gặp khó khăn lớn nếu Việt Cộng thấy nó làm như thế. TQLC nhìn xuống sàn xe, chẳng ai cười vì họ không biết gì đang đợi họ đây. – Và đưa tay ngoắt lại thằng bé.
Gần tới cầu An Cựu, xe dừng lại. Charbonneau lo lắng chờ đợi. – một chếc xe GMC đang nghiêng xuống đường – bèn bước ra khỏi xe. Anh bước qua bên lề đường vói nhìn lên trước. Mấy chiếc xe đầu đang chạy chậm chậm. Anh ta tự hỏi không biết có việc gì rồi quay lại xe và cầm máy gọi viên đại úy. Bất thần có tiếng nổ dữ dội. Chiếc xe của viên đại úy bị cháy. Tiếng súng nhỏ nổi lên.
Tiếng của sĩ quan quản trị đại đội (qua hệ thống bộ chỉ huy quân vận) bất thần xen vào trong máy điện đàm. Ông ta nói với trung úy Charbonneau rằng ông đang đảm trách công việc, yêu cầu tiếp tục di chuyển.
Phía trước, các xe GMC rú hết máy vượt qua cầu, xe Charbonneau tiếp theo. Anh ta biểu tài xế dừng lại bên chiếc xe Jeep đang cháy rồi nhảy xuống xe tìm viên đại úy và người tài xế trong khi khẩu đại liên 50 bắn yểm trợ cho anh ta. Charbonneu không tìm thấy ai hết. Trước mắt họ, đoàn xe tiếp tục đi vì vậy anh ta phải nhảy lên xe chạy cho kịp. Đoàn xe chạy tới, gặp một bùng binh có trạm xăng Shell bên đường rồi tiếp tục qua một đoạn hai bên là ruộng. Và rồi – Charbonneau không thể tin được – quân CSBV chạy xuyên qua đám ruộng, bắn vào các xe vận tải. Mọi người bắn trả lại. Cây đại liên 50 trên xe Charbonneau nã đạn, TQLC trên các xe chạy phía sau dùng M-16 bắn lốp bốp về phía địch. Toán hỏa lực thì phản công bằng đại bác M-79. Nước và bùn văng lên ở các đám ruộng. Quân CSBV chúi đầu vào các đường rãnh, đường hầm, không bắn lại nữa.
Đoàn xe cứ lo bắn để chạy, phía trước, hai bên hông và đằng sau.
Mấy hôm trước, mồng một Tết, Charbonneau đã lái xe đi Huế, khi dân chúng đang làm lễ năm mừng mới. Anh ta có cho dân chúng rượu vang, kẹo. Bây giờ thì thành phố vắng hoe, mặt tiền các cửa hàng chất đầy củi cây vì quân địch dựng công sự chiến đấu. Quân địch làm công sự như vậy hai bên đường cho tới khu MACV, phía ngoài cổng thì hẹp lại như cái cổ chai.
Charbonneau nhìn lui, không thấy chiếc xe cần cẩu chạy theo sau. Anh ta bèn chạy lui nói với toán hỏa lực quay lui tìm chiếc xe nầy. Một người lính trong bọn tỏ ý chán nãn, anh ta không muốn chạy giữa lằn đạn một lần nữa.
– “Gắng lên.”
Người lính gần như muốn xin lỗi:
– “Chúng tôi là xạ thủ vũ khí chống máy bay.”
– “Chúng ta không thấy chiếc máy bay nào. Anh có thể bắn chúng nó. Đi đi.”
Anh lính lái xe lách ra khỏi đoàn xe đang ngừng, tìm cách quay lui thì chiếc xe cần cẩu trờ tới. Viên đại úy bị mảnh đạn ở sau lưng. Tài xế của ông ta thì phía trên mắt cá chân bị rách đong đưa mấy miếng da, xạ thủ cũng ở đây, gò má bị mấy vết sứt và người y tá có bộ râu như ghi-đông xe đạp xử dụng súng tiểu liên Thompson đang cúi xuống chăm sóc cho những người bị thương nầy. Có mấy miếng gỗ được dùng chèn thùng nước xe bị bắn bể. Mấy người lính VNCH mang cáng tới cho một người bị thương. TQLC mở cáng ra, thận trọng đặt người tài xế lên đó rồi nhẹ nhàng khiêng vào trạm xá.
– “Lẹ đi, anh lính nằm trên cáng nói, tôi sắp chết rồi đây. Nhanh lên.”
Charbonneau bước vội vào trạm xá theo tài xế. Y Sĩ Hamilton khám và chích cho anh ta một mũi thuốc. Người lính TQLC nhìn chằm chằm vào chân anh ta. Hamilton lấy kéo cắt mấy miếng da tòn ten đi.
Charbonneau quay lại sân trong MACV. Vài TQLC hỏi anh ta bao giờ thì trở lại Phú Bài. Chẳng ai biết gì cả. Có mấy chiếc xe tải bị hỏng, chiếc thì bể vỏ xe, chiếc chảy bình nước. Các thợ máy đang sửa xe thì có pháo kích. Đạn hú và nổ trong sân. Ai nấy tìm chỗ núp. Charbonneau lăn xuống gầm một chiếc xe tải trước khi kịp nghĩ ra đạn súng cối nổ sát mặt đất. Thêm mấy loạt đạn bắn vào nữa nhưng chẳng ai bị thương, chỉ làm cho một chiếc xe GMC thủng lỗ chỗ mà thôi.
Tới tối, Charbonneau, viên đại úy bị thương, y tá, và một số TQLC mang những người bị thương băng qua một lỗ nơi vách tường để đi vào trong tầng đầu của một tòa nhà chờ trực thăng đến tải thương. Y tá hỏi anh tài xế bị thương ở chân cần chích thêm morphine cho đỡ đau không.
Rõ ràng người nầy đang đau nhưng anh ta lắc đầu. “Không.” – Anh ta nói, anh không muốn ghiền. Anh thường chịu đau đã quen.
Charbonneau nghĩ thật là mai mỉa. Trước kia anh lính nầy bị bắt gặp ngủ gục khi đang gác và bị giữ ở Việt Nam vì hút cần sa nhưng bây giờ thì lại chứng tỏ can đảm khi đang bị thương.
Cuối cùng có tin trực thăng tới bãi đáp ngoài bờ sông, phải đem thương binh đi, theo con đường thường đi; trời đang mưa và sương mù. Hai chiếc Sea Knight từ hướng Phú Bài bay tới, không bật đèn. Máy bay nhận thương binh xong bay đi liền. Đại úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, mặc dầu đang bị thương, quyết định ở lại. Ông ta quay lại MAC.V cùng Charbonneau lo chuẩn bị đoàn xe tải.
Buổi sáng. Họ lại đem thương binh ra bãi đáp. Thỉnh thoảng trực thăng tới nhưng chỉ chuyển ai bị thương nặng đi trước. Một anh TQLC, thân mình bị băng bó bốn nơi, khấp khiểng ra tới bãi đáp ngồi chờ với những người khác trong đám cây cọ và bao cát làm công sự. Sĩ quan phi hành nói có một chiếc trực thăng khác đang trên đường bay tới. Khi Charbonneau thấy đó là chiếc trực thăng Quân Đội Mỹ đang bay tới hướng họ – không phải máy bay của TQLC – hạ xuống, anh ta bèn chế giểu anh sĩ quan phi hành. Anh nầy bèn nói cho biết có nhiều trực thăng của TQLC bị bắn hạ, không có cách nào khác. Chiếc máy bay vừa đậu lại thì anh thương binh bị băng 4 chỗ cùng những người khác lên tàu, một viên trung úy bị băng quanh đầu tới máy bay.
Người trưởng toán phi hành đuổi người lính ra khỏi máy bay, nhường chỗ cho viên trung úy. Charbonneau nhìn chằm chằm vào viên trung úy ấy một lúc và nghĩ: “Với tên nầy thì trước đàn bà và trẻ em, y muốn được trước. Trông y hoàn toàn lúng túng và sợ hãi.”
Chiếc máy bay cất lên. Charbonneau nhận ra rằng anh vừa chứng kiến một cảnh tồi tệ của con người có cấp bậc và đặc quyền ưu tiên: Viên trung úy trông có vẽ bị thương không nặng lắm. Truyền tin báo cho biết khoảng hai giờ đồng hồ nữa sẽ có trực thăng tới. Nghe vậy, anh TQLC nói anh sẽ chờ tại MAC.V. Charbonneau nói với người lính anh ta sẽ dìu anh lính về nhưng anh ta cám ơn rồi khập khểnh bước đi.
Mấy ngày sau, viên đại úy bị thương ra lệnh cho Charbonneau trở về liên lạc với tiểu đoàn. Anh ta trở về bằng tàu Hải Quân, đi chung với vài người dân Việt Nam, các TQLC tử trận và cái chân của người tài xế đựng trong cái bao.
Mãi đến ngày 4 tháng Hai, trung tá Gravel vẫn còn ở tại MAC.V. Ông ta chẳng có gì nhiều để lựa chọn. Toàn bộ tiểu đoàn ở Huế, ngoài ban tham mưu và các trung đội thuộc Đại Đội Alpha 1/ 1 thiếu hụt quân số và binh sĩ thương vong. Ngày 2 tháng Hai, hai trung úy Smith và tiền sát viên của Alpha, Perkins – cố về lại tiểu đoàn bằng chuyến xe của Đại Đội Hotel 2/ 5. Khi qua An Cựu thì bị phục kích, các thùng đạn trên xe bị đổ và đè chết Perkins. Sĩ quan kia, trung úy Ray. L. Smith, trung đội trưởng Trung đội 2 chỉ huy đại đội Alpha thay cho Gunny Canley.
Sáng ngày 4 tháng Hai, Gravel quyết định tiến công.
Mục tiêu bây giờ là trường Janne D’ Arc và nhà thờ (nhà thờ nhà nước – tên thường gọi – ngd), cách MAC.V khoảng một trăm mét. Gravel biết có lực lượng quân CSBV ở đây. Buổi sáng ngày 1 tháng Hai, dân chạy nạn đổ vào MAC.V thật đông, trong số có vài bà xơ người Việt. Gravel nói chuyện với họ bằng một thứ tiếng Pháp không được gãy gọn lắm do học được khi còn ở trường cấp ba. Các bà xơ nhỏ bé ăn mặc áo tu đen trắng nầy cho biết quân CSBV đã chiếm nhà thờ. Họ nói: “Ít cũng có khoảng một trăm người, chia làm bốn, ở trong các lớp học và trong phòng ngủ của các bà “xơ”. Tiến đánh lực lượng nầy gồm có hai trung đội rưởi của Đại Đội Alpha, do Smith và Canlay chỉ huy.
TQLC tiến vào mục tiêu, quân CSBV bắn như mưa. Lính bị thương khi họ chạy vòng qua góc nhà hay tấn công vào cửa. TQLC bắt đầu dùng chất nổ C-4 và hỏa tiển tấn công để phá hủy vách nhà và sân tường thành những lỗ có thể tiến quân qua được. Đó là một cố gắng bền bĩ và chậm. Cuối cùng. Họ tấn công thẳng vào địch quân. Các lớp học nầy là một khu tứ giác lớn, ở giữa là sân rộng.
Nhà thờ nằm cạnh bên lớp học, giữa những hàng cây xanh.
Trung úy Smith và Canley cho quân tiến lên, bắn vào vị trí địch. Hai người dẫn đầu, chạy từ chỗ núp nầy tới chỗ núp khác, vừa chạy vừa la xung phong và điện đàm với Gravel qua máy truyền tin. Hạ sĩ Jackson dừng lại với tiểu đội. Hỏa tiển B-40 do địch bắn nổ liên tiếp, mảnh bay lung tung. Chưa bao giờ anh ta nghe hỏa tiển nổ nhiều như vậy. “Chúa ơi! Thiệt là cảnh kinh hoàng!” Anh nghĩ thế. Hai quả đạn nổ trên mái nhà, làm vài người bị thương. Ở phía bắc, nơi Đại đội 2/ 5 đang tấn công vào ty Ngân Khố, trận đánh đang gay cấn. Hơi cay của Đại Đội 2/5 xử dụng bay ngược về phía Đại Đội Alpha làm cho cuộc tấn công bị ngưng lại.
Gravel đang ở trên máy, nói với bạn:
– “Ernie Cheatham, đừng bắn hơi cay nữa”.
– “Xin lỗi ông bạn già.”
Các trung đội tấn công, xông vào nhà thờ, bất thần lựu đạn nổ âm ầm vào toán hỏa lực tiên phong. Mấy TQLC vừa chết vừa bị thương. Lựu đạn nầy từ trên mái quăng xuống.
Địch núp trên nóc nhà thờ.
TQLC phải bò ngược trở lại điểm xuất phát.
Smith gọi máy hỏi Gravel: “Chúng tôi làm gì bây giờ?”
Gravel nghĩ tới các bà xơ đang tạm trú ở MAC.V với lòng biết ơn, nhưng ông ta không có cách chọn lựa nào khác:
-Bắn trốc mái đi.
Smith điều một chiếc tăng lên và bắt đầu tác xạ. Một toán đại bác không giật cũng lên, hòa âm ầm ầm cùng đại bác xe tăng. Nhà thờ rung rinh, ngói, gỗ bay khỏi mái. Cột và cửa sổ mặt tiền đổ sụp xuống thành đống. Địch trên nóc nhà thờ đều chết cả. TQLC lại tấn công, bắn đục tường để lấy đường vào bên trong, diệt các toán CSBV trong các phòng học và các phòng ngủ nhỏ của các xơ. Địch chiến đấu từng thước đất một. Thật là một cuộc đổ máu kinh hoàng. Chẳng còn lệnh lạc gì nữa hết. Toán hỏa lực chạy vào các lớp học, bắn như điên như cuồng, quăng lựu đạn nổ ầm ầm. Khói bay mù mịt, tiếng la hét, vôi vữa bay khắp nơi, xác người nằm ngỗn ngang. TQLC thấy mình đã chiếm được cánh bên nầy của trường học, bắn nhau với địch đang núp ở cánh bên kia, cách nhau bằng sân trường. Trung sĩ Gonzalez, hôm qua đã bị thương hôm nay vẫn chiến đấu, đá bung cửa một lớp học, xộc vào trong cùng với mấy TQLC của Trung Đội 3. Từ hai cửa sổ phía trước, hỏa tiển B-40 bay tới. Gonzalez cầm hỏa tiển LAWW lên nhắm. Anh ta bắn ít nhất 10 trái hỏa tiển, lửa và khói bùng lên ở vị trí quân CSBV. Súng ngưng nổ.
Thêm một ngày Gonzalez chiến đấu.
Quân địch rút khỏi nhà thờ và trường Janne D’ Arc. TQLC vào chiếm đóng. Kiểm điểm quân số: TQLC hai người chết, 20 bị thương.
Hạ sĩ Jackson cùng với binh lính của anh ta tiến vào một trong các phòng học, bỗng phòng bên cạnh có một tiếng nổ kinh hồn làm rung rinh cả tòa nhà: Địch ở bên kia bắn qua một quả B-40. Hạ sĩ Jackson cùng mấy người lính TQLC chạy băng qua hành lang đầy đặc khói, xông vào một phòng khác. Tấm sắt ở trên của sổ văng vào trong lớp. Hai TQLC bị thương té xuống và – Chúa ơi! Gonzalez nằm dài trên nền nhà, ruột lòi ra. Bụng anh ta trúng một trái hỏa tiển. Jackson không muốn để anh ta lại một mình trong đống vữa, gạch vụn – Anh ta không muốn quân CSBV có cơ đụng đến thân thể bạn anh, anh cùng hai TQLC khác kéo Gonzalez tới một cánh cửa bị đổ. Rồi họ chạy lui phía sau trường học, băng qua khỏi ngôi nhà thờ nhỏ nơi Gravel đặt bộ chỉ huy tạm.
Gravel nhìn lên. Kinh ngạc. Trung sĩ Gonzalez, người lính TQLC tuyệt vời đã chết. Họ đặt xác Gonzalez phía sau ngôi nhà thờ nhỏ cùng với những người bị thương khác. Có hai phóng viên báo chí đang đứng ở đây, họ chụp hình các người chết và bị thương. Họ đang nói chuyện đùa, Jackson nghĩ có lẽ họ là người Pháp. Jackson cũng chẳng thèm lưu tâm, chạy trở lui với trung đội của mình.
Gravel bắt đầu tiến lên nữa, tìm một vị trí an toàn. Ông ta thấy hai tu sĩ cùng TQLC chạy tới nhà thờ của trường Janne D’ Arc. Các tu sĩ nầy vừa được giải thoát khỏi tay quân CSBV. Gravel lấy làm lạ tự hỏi tại sao họ vẫn sống được – TQLC thường tự động bắn vào những ai mặc đồ đen. Mặt các tu sĩ nầy thì trắng: Một là người Pháp, người kia là Bỉ. Các tu sĩ hết sức giận dữ, một người thì có vẻ sốc vì súng đạn, người kia thì thét vào mặt Gravel vì nhà thờ bị bắn sụp.
Ngoài việc xin lỗi, Gravel chẳng biết làm gì hơn. Ông ta cũng biết chẳng còn chọn lựa nào khác. Ông ta đi băng qua đám gạch ngói đổ và nhìn lên mái nhà thờ. Quân CSBV phá vở mái hiên bằng gỗ, Gravel nghĩ bọn địch đeo đẳng quá lâu ở đây, và thế là qua một buổi chiều đánh nhau dài dằng dặc, tốn hao xương máu.
Trung sĩ Gonzalez đánh giặc giỏi và bây giờ thì anh ta đã qua đời!
Buổi chiều khi hai trung đội rưởi của Đại Đội Alpha đang đánh nhau với địch ở trường Janne D’ Arc, thì các binh sĩ còn lại thuộc Trung Đội 1 bị mắc kẹt ở Quảng Trị lên đường về Phú Bài. Ở đây, họ nhập với Đại Đội Bravo 1/ 1 và tiến ra QL. 1.
Xe chất đầy đạn dược, không còn chỗ ngồi, hạ sĩ Edward F. Neas của toán súng máy Trung Đội 1 chỉ còn chỗ đứng mà thôi. Nếu có gì được xem là điển hình cho người lính bộ binh TQLC trong chiến tranh Việt Nam thì có thể xem Neas là một con người thích hợp với điều đó. Quê ở Queens, to con, gồ ghề, tóc đen, 19 tuổi, bỏ trường năm 16 tuổi, vì hay cãi lại cha mẹ, vào TQLC năm 17 tuổi, tình nguyện qua Việt Nam năm 18 tuổi vì muốn làm một cái gì đó, xăm hình con phượng hoàng, quả địa cầu và mỏ neo (huy hiệu TQLC) lên bắp tay và viết mấy chữ DTK (Down To Kill) vào lưng áo giáp. Anh ta ghét quân CSBV chỉ vì họ bắn vào anh và bạn bè anh, và đánh giặc thật hay chỉ vì anh ta là TQLC. Khi được về hậu cứ thì anh ta nghe radio, uống vài loon bia và hút thuốc với bạn bè.
Tới gần sông An-Cựu, đoàn xe chạy qua những chiếc xe tăng do Mỹ sản xuất đã bị hư hỏng, đâm đầu vào các ngôi nhà gạch hai bên đường, súng đại bác bị bung khỏi pháo tháp, rớt xuống bên cạnh. Có vẽ như những xe nầy bị B-40. Neas và bạn anh im lặng, căng thẳng, nhìn ra hai bên đường, súng sẵn sàng trong tay. Bất thần có mấy tiếng nổ, tiếng súng nhỏ từ trong những dãy nhà hai bên đường bắn ra. TQLC bắn trả, xe dọt nhanh tối đa. Neas tưởng như xe chạy có hai bánh hướng nhanh về MAC.V. Vào tới nơi, phóng xuống xe và họ sẵn sàng đứng vào vị trí dọc các vách tường. Quanh khu MAC.V đầy xác quân CSBV, kẻ thì vắt trên hàng rào, nhiều xác nằm dài trong sân, có xác mắc trong kẽm gai, cứng đơ và đã sình.
Neas nghĩ: “Chúa ơi, trông như trong một cuốn phim chết tiệt.”
Có người báo cho biết: “Đại úy Batcheller bị thương nặng, trung úy Perkins chết, trung sĩ Gonzalez chết, bác sĩ Brooklyn cũng chết.”
Neas bị xúc động mạnh. Kẻ thù đã giết mất những người giỏi nhứt. Nhưng Neas tự an ủi, ít ra cũng còn Canley, những người bị thương và tất cả mọi người.
Chỉ mới 6 tuần trước, đại đội thực hiện một cuộc tấn công quân CSBV trong các hầm hố ở Cồn Tiên. Neas lom khom đằng sau một chiếc xe tăng khi chiếc xe nầy tiến tới. Một trong các xạ thủ đại liên bị đạn vào ngực. Y tá chạy lên, cũng trúng đạn và ngã xuống. Neas thấy Canley chạy vượt qua chỗ anh ta, ôm lấy người y tá bị thương bây giờ trông rất tơi tả, rồi nhanh như chớp quay trở lại, vừa chạy vừa bắn mà chẳng bị chợt da một chút nào.
Neas rất tin những người chỉ huy Trung Đội 1. Thiếu úy William R. Donnelly là một người dẻo dai, tóc vàng, vừa mới được gắn loon ra trường tại học viện Annapolis. Vì Neas và những người lính khác mới 18, 19 tuổi trông anh ta còn trẻ nên họ đặt cho Donnelly biệt danh là “Chú Bé”. Trong trung đội cũng có một anh trung sĩ, trung sĩ Josef Burghardt, 21 tuổi, dáng người rắn chắc, đẹp trai và thông minh. Anh ta từ Nam Tư di dân đến Mỹ hồi 5 tuổi, và muốn tạo sự nghiệp trong TQLC. Anh ta xăm một cái hình lớn biểu tượng cho TQLC/ Hoa Kỳ trên bắp tay. Năm 1966-67, anh đến Việt Nam một lần, khi ở Sư đoàn 9, được thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng – như anh ta thường nói, chẳng nghĩa lý gì cả -, khi anh ta cùng đồng đội phản kích một cuộc tấn công của Cộng Sản sau khi đã bị thương.
Neas yêu mến Burghardt; anh ta là một TQLC giỏi, một người bạn, một hạng người có thể tin tưởng hết lòng. Cả Trung Đội 1 ai cũng có lòng tin anh ta như vậy.
Thiếu úy Donnelly và trung sĩ Burghardt không có thì giờ nghỉ ngơi một chút sau khi sắp xếp đơn vị lại tại MAC.V. Viên thiếu úy được lệnh đưa trung đội của anh ta, một trung đội lấy từ đại đội Bravo và hai cái xe tăng nhỏ có trí súng đại bác đi tìm xác hai TQLC bị giết ở phía đông MAC.V, quanh sân vận động Huế. Họ đã để lại hai xác chết nầy trên đường. (TQLC có truyền thống là không được bỏ xác đồng đội lại sau khi rút đi).
TQLC tiến ra, vòng theo các đường phố và con hẽm, không ai biết chắc việc gì sẽ xảy ra. Trước đây, họ chưa bao giờ chiến đấu trong thành phố. Mọi người ai cũng căng thẳng thần kinh. Bất thần có bóng người di chuyển phía trước, thập thò ở cái hố bên đường. Tức khắc, hai TQLC quỳ xuống và nổ súng, chiếc xe tăng có gắn đại bác đi đầu cũng nổ súng. Mấy bóng người gục xuống. Khi TQLC tiến lên, họ bối rối vì quang cảnh trước mặt: Dưới đáy hầm và bên lề đường là xác mấy người Việt Nam mặc đồ dân sự. Có thể đó là quân CSBV xâm nhập ngụy trang dân sự. (đơn vị 1/ 1 đã gặp rắc rối vì tình trạng nầy) hoặc cũng có thể họ là người dân thường thật sự.
Dù sao thì cũng có vài TQLC chẳng quan tâm lắm.
Cuộc tuần tiểu tiếp tục. Có tiếng súng AK nổ phía trước. Ngay phát súng đầu tiên, Burgdardt và Neas nằm sát xuống đất, bên chiếc xe đại bác đi đầu. Xe quay súng về phía căn nhà nhỏ nằm
Có người phát hiện ra mấy cái xác họ đang đi tìm nên bốn TQLC chạy lên trước để nhận xác. Súng AK và B-40 lại nổ khiến ba người té xuống đường, bị thương. Thiếu úy Donnelly và trung sĩ nhứt James R. Bresnahan cùng Dagley, cả hai thuộc Đại Đội Bravo chạy lên trước. Lính TQLC bắn như điên để che cho những người nầy. Cách khoảng mấy chục thước phía trước, địch bắn tới, đất như bị cào lên chung quanh. Donnelly bị mấy mảnh đạn hỏa tiển, nhưng ba người nầy vừa khom mình chạy vừa bắn để kéo mấy người bị thương lui.
Trung đội tập trung người bị thương và bắn ngược lại phía đường cũ: MAC.V. Thiếu úy Donnelly đem trung đội tiến ra hướng tây để tham chiến cùng những người còn lại trong đại đội. Họ vào một ngôi nhà lớn và Donnelly thấy mình đang đứng hàng đầu. Anh ta điện đàm với trung úy Smith, người muốn anh ta rút lui. Tuy nhiên, lúc ấy trời đã tối, di chuyển trong đêm rất nguy hiểm. Vì vậy, trung đội ở lại. Chỉ còn có 19 người. Donnelly gọi điện cho Smith bắn súng cối yểm trợ cho anh ta.
Trung sĩ Burghardt trải qua một đêm ngồi bên cửa sổ, nhìn qua đám ruộng và hàng cây phía bên hông. Thỉnh thoảng hỏa châu bắn lên, rọi xuống đường và các đám ruộng đầy nước. Ngay ở đây, nhìn qua cửa sổ, anh ta thấy quân CSBV. Họ đi từng đoàn, từng đoàn phía bên kia ruộng lúa, giống như đàn kiến, hướng về phía biển. Họ không mang súng, nhưng pháo binh hay súng cối cũng không được gọi tới tác xạ vào họ. Suốt đêm, quân CSBV an toàn di chuyển, không bị hề hấn gì, mang người chết và bị thương ra ngoài thành phố và mang đồ tiếp tế vào. Burghardt nghĩ: “Thiệt là ngu xuẩn.”
Hôm đó, đại tá Hughes ở trong MAC.V khi có pháo kích. Sau đó, có tin báo cáo là cầu An Cựu đã bị đặc công địch phá sập. Như thế, con đường bộ từ Phú Bài đi Huế bị cắt đứt. (Có vài cây cầu khác nữa nằm phía tây cầu An Cựu, cũng trên sông đào nầy, một nhánh sông từ sông Hương chảy vào, nhưng tất cả cầu nầy còn nằm trong tay địch). Đó là tin xấu, nhưng địch cũng không may gì. Họ đã để một thời gian quá lâu mới phá cầu. Đó là chỗ hỏng lớn trong kế hoạch hành quân của họ. Cây cầu đã giúp đưa các Đại đội A/ 1/ 1 và G/ 2/ 5 vào MAC.V ngay ngày đầu tiên, cứu được nơi nầy, thiết lập điểm phòng ngự, chuẩn bị cho cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Cầu nầy giúp đưa thêm vào Huế nhiều binh lính và tiếp liệu. Đến khi quân CSBV phá cầu An Cựu thì đã có 5 đại đội ở Nam Huế. Xem xét tình hình địch, Gravel thấy có lý do để mỉm cười.
Sáng hôm sau, thứ Hai, ngày 5 tháng Hai, hai Đại Đội Alpha và Bravo bắt đầu tiến chiếm các ngôi nhà dọc theo ruộng lúa. Hạ sĩ Neas cùng toán súng máy chạy qua một con hẽm, bắn vào các cửa sổ ở những ngôi nhà trước mặt họ. Quân CSBV bắn lại như mưa.
Trung sĩ Burghardt vẫn còn ở trong căn nhà lớn với hạ sĩ Norris Brennen, anh nầy là tiểu đội trưởng súng máy, đang bắn qua bên kia đường. Burghardt gọi máy cho Donnelly báo rằng cần thêm hỏa lực hỗ trợ. Anh ta biểu Brennan tránh xa các cửa sổ cho đến khi họ có thể xử dụng xe tăng được hay sẽ làm gì đó rồi rút ra khỏi hành lang. Anh ta mới đi được có mấy bước thì nghe Brennen bắt đầu nổ súng trở lại. Rồi anh ta nghe có tiếng vũ khí đụng lách cách trên sàn nhà. Burghardt vội quay lại phòng. Brennan là người chậm chạp, để súng cướp cò trúng mặt, máu tuông ra.
Neas đang trí súng vào thành cửa sổ để bắn thì thấy mấy TQLC đang ở phía dưới đường vội vã khiêng một người ra cửa. Đó là Brennan, đầu anh ta băng kín. Còn sáu tuần nữa thì anh ta hết phiên ở Việt Nam, nhưng anh bị xuất huyết cho tới khi chết.
Có nghĩa là bây giờ hạ sĩ Neas làm tiểu đội trưởng.
Vài phút sau, tiếng xích sắt xe tăng kêu leng keng dưới đường. Xe dừng lại, pháo tháp quay chậm chậm về phía ngôi nhà có quân CSBV ẩn núp, bắn mấy phát. Đại bác 90 ly nổ bum lên, người chỉ huy bắn đại liên 50 vào các cửa sổ, gạch ngói bay lung tung, khói lên cuồn. Địch chạy ngược lui cửa sau, trợn tròn mắt kinh hoàng, không bắn được phát súng nào, chạy vượt qua khoảng sân sau. Burghardt chạy tới cửa sổ tầng lầu 2. Cách khoảng mấy chục thước, quân CSBV đang bò. Vài người giật bắn lên và rơi xuống vì trúng đạn. Số khác chạy thoát được. Burghardt nổ súng nhưng cũng không chắc anh ta có gặt hái được gì.
Cuối cùng, anh ta ngưng bắn, mang súng M-16 chạy xuống cửa sau nơi quân CSBV chạy ra. Một lính địch nổ súng. Anh ta bắn lại một tràng, địch ngã ngay xuống sân. Rồi một tên phóng ra, anh ta bắn hạ, lại một tên nữa phóng ra, anh bắn hạ, cứ thế mà anh ta đã hạ được nhiều địch quân.
Một lúc, tình hình yên tĩnh trở lại. TQLC hé nhìn qua các khe cửa, Họ thấy có 9 địch quân chết nằm chồng lên nhau mà các đồng chí của họ không kéo đi được. Gravel thấy tự hào về thành quả đó. Quả thật đơn giản là quân CSBV không thể nào đương cự nỗi với những người lính TQLC trẻ trung của ông ta.
Các thương binh TQLC vẫn tiếp tục chiến đấu hoặc được đưa vào trạm xá trong MAC.V. Lúc tình hình lắng dịu, y sĩ Hamilton tới bộ chỉ huy của đại tá Hughes. Ông ta đang đứng đó thì có bức điện gởi tới cho đại tá Hughes. Mấy TQLC phát hiện quân CSBV trong một ngôi chùa và xin phép bắn súng cối vào ngôi chùa ấy. Hughes làm theo chỉ thị về cuộc chiến ở Huế, nên gọi điện xin phép bộ chỉ huy LLĐN của tướng LaHue ở Phú Bài, rồi từ đây chuyển cho bộ tham mưu tướng Robertson tư lệnh Sư đoàn 1 TQLC ở Đà Nẵng. Từ đây, điện lại chuyển cho bộ tham mưu tướng Cushman. Hai giờ sau, Hughes nhận được lệnh cho pháo kích ngôi chùa nhưng kèm theo lời khuyến cáo giảm thiểu tối đa sự hư hại ngôi chùa cũng như những kiến trúc quanh chùa. Tới khi TQLC bắn đại bác không giật vào chùa thì quân CSBV đã rút mất rồi.
Hôm sau, ngày 6 tháng Hai, trung sĩ Burghardt leo lên tầng trên của ngôi nhà lớn khi anh ta nghe la có quân địch ở phía sân sau. Anh ta chạy tới cửa sổ nhìn xuống thấy có một Việt Cộng và hai quân CSBV đang núp dưới mấy cây dừa ở trong sân, lặng lẽ quan sát vị trí của TQLC. Họ không biết là họ đã bị phát hiện. Burghardt đưa súng lên nhưng vì lá dừa che nên không trông rõ địch. Anh ta mang súng chạy xuống tầng dưới tìm một cửa sổ khác trông ra. Bây giờ anh ta thấy rõ. Họ đang ngồi quay lưng về phía anh. Anh ta từ từ đưa súng lên vai và nhắm bắn. Một lính CSBV đâm đầu gục xuống gốc cây. Phát thứ hai: Anh kia rơi phịch lui sau. Cả trung đội nổ súng: Tên địch thứ ba và lá cây như bị xé nhỏ ra.
Dù vậy, họ không phải thanh toán hết đám địch trong khu nầy.
Một lúc sau đó Burghardt đang đứng ở tầng dưới nói chuyện với trung úy Donnelly thì có tiếng nổ lớn phía sau bức tường họ đang đứng. Hai người lính TQLC đang đứng ở đây, tai bị vưng lên, phủi bụi và chùi máu phía sau cổ. Một mảnh đạn xuyên qua áo giáp và mũ sắt. Anh ta nhận ra quân CSBV đã dùng ngay chính hỏa tiển của họ để bắn.
Hai người đều được Chiến Thương Bội Tinh nhưng không ai chịu di tản cả.
Trong tuần đầu tiên chiến đấu trên đường phố, Đại đội 1/ 1 lấy làm vui vì đã hoàn thành nhiệm vụ trong trận đánh Huế. Từ ngày đầu tiên, Gravel đã gọi điện tiếp xúc với bán Phi Đội Cat Killer của Không Quân Hoa Kỳ, họ đang đóng gần MAC.V và đang bị quân CSBV bao vây. Họ đào hầm trong nhà, đặt mìn claymore chung quanh nhà, chờ giải cứu. Mỗi khi Đại Đội Alpha hay Bravo tiến gần tới họ thì họ bị địch bắn rất gắt. Họ có một bản đồ và thông báo vị trí địch cho Gravel. Mỗi khi địch bắn vào nhà hay bắt đầu quấy rối bên ngoài thì họ chỉ điểm vị trí địch cho Gravel. Do đó, Đại đội 1/ 1 bắn súng cối vào vị trí địch, đẩy địch ra chỗ trống để dễ tác xạ. Được ít ngày, pin trong máy của họ bắt đầu yếu đi. Do đó, Gravel nói với họ gọi hạn chế giờ lại để báo cáo tình hình mà thôi. Một hôm, họ nghe được trong máy tiếng nói như thì thầm. Gravel biểu họ cố giữ liên lạc bằng việc lắc ống nói. Không Quân cố thả pin xuống cho họ nhưng lại lạc dấu. Cuối cùng Đại đội 1/ 1 chiếm lại được ngôi nhà và giải cứu họ. Đó là kinh nghiệm giữa 1/ 1 và toán phi công Cat Killer. Sau Huế các phi công nầy hết lòng giúp binh lính của Gravel.
CHƯƠNG 5: LÁ CỜ MỸ TRONG SÂN TÒA HÀNH CHÁNH THỪA THIÊN/ HUẾ
Sau khi củng cố an ninh khu Ngân Khố – Bưu Điện mới chiếm được, ngày hôm sau, Đại Đội 2/ 5 (ĐĐ) chiếm Câu Lạc Bộ Thể Thao, Thư viện Đại Học, Bệnh Viện Trung Ương Huế. Tài liệu cho biết có 38 TQLC Mỹ bị thương trong khi 66 lính CSBV bị giết và 30 chục CSBV bị bắt khi đang điều trị trong bệnh viện Trung Ương Huế.
Mục tiêu chính của Đại Đội bây giờ là tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên/ Huế. Đại úy Ron Christmas, Đại Đội Trưởng Đ/Đ Hotel được giao nhiệm vụ nầy. Anh ta gặp phải vài điều rắc rối về chiến thuật. Tòa Hành Chánh nầy là một khu nhà lớn, hai tầng lầu xây theo kiểu Pháp, mái bằng, rất tiện cho quân Cộng Sản núp trên đó để bắn xuống đường. Một bức tường cao 8 bộ bao quanh tòa nhà, phần trên tường nầy lại có những khe hở. Christmas không biết có gì sau những bức tường nầy.
Tuy nhiên, viên đại úy trẻ tuổi nầy gặp một điều thuận lợi lớn:
Binh lính ông ta muốn chiếm ngôi nhà nầy. Vào ngày đầu tiên khi chiếm Huế, quân Cộng Sản đã treo một lá cờ sao vàng lên cột cờ của toà Hành Chánh. Đó là một hình ảnh cứ hiện ra dai dẳng mà xạ thủ súng máy Frank Thomas thường phản ảnh ý nghĩ của nhiều TQLC khác, khi anh ta nói rằng: “Cần phải hạ lá cờ của quân CSBV đó xuống.” Họ đã thực hiện được việc ấy hôm 6 tháng Hai.
Ngày 6 tháng Hai, sau trưa một chút, họ tiếp tục tiến quân, theo sau là cỡ một tiểu đội phóng viên báo chí, gồm cả Don Webster của đài truyền hình CBS và hai người Việt mang máy quay phim cho anh ta, trung sĩ Bertson và trung sĩ Dye, trung sĩ Bill Dickman, trung sĩ Paul Thompson. TQLC Mỹ tiến phía trước, đi ngoằn ngoèo qua những cây cọ đã bị bắn ngã và mấy ngôi nhà nhỏ bị cháy cho đến khi vào được bên trong một cái sân rộng có trồng cây rải rác. Phía sau sân là tòa nhà lớn, hai tầng. Bên phải họ là đường Lê Lợi và sông Hương, cuối sân là dãy nhà xe thấp, quay mặt ra con đường kế đó, ngay bên kia đường là toà Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên/ Huế. TQLC bò trên cỏ, về hướng nhà xe, cúi xuống thật thấp. Quân CSBV bắn dữ dội.
Ngay khi súng bắt đầu nổ, thiếu tá Salvati kéo theo tài xế của ông và hai TQLC trẻ xạ thủ đại bác 3.5 inches tìm đường vào bệnh viện vừa được giải tỏa xong. Bệnh viện vắng, ngoại trừ một phòng dài đầy bệnh nhân nằm trên giường. Mấy bệnh nhân nầy đã già và sợ điếng người. Salvati coi như họ đã chết. Mấy TQLC vào cuối phòng và tìm một cửa sổ ngó qua tòa Hành Chánh rồi trí súng đại bác 3.5 lên trên ấy. Xạ thủ nổ súng, hơi bật hậu dội vào hành lang, các giường bệnh bị đùa xa ra, dồn vào góc nhà. Các TQLC kinh ngạc nhìn những người bệnh già bất thần chui ra khỏi giường và từ từ biến mất.
Họ bắn thêm mấy phát súng nữa. Salvati gọi máy cho Cheatham mang tới ít đạn hơi cay để bắn sang tòa Hành Chánh. Ông ta muốn lặp lại thành công đã đạt được ở ty Ngân Khố. Nhưng lần nầy thì gió ngoài sông Hương thổi vào hơi cay bay mất.
Đại úy Christmas đứng trên đám cỏ trước căn nhà lỗ chỗ vì đạn, súng M-16 mang trên vai, đang nói vào máy truyền tin. Ông ta còn trẻ nhưng mặt mày phờ phạc, râu ria lởm chởm, giọng nói mệt mõi. Ông ta và đại đội đánh nhau với quân CSBV ở Huế đã 5 ngày. Bên cạnh là hai hiệu thính viên còn trẻ và các phóng viên báo chí. Thomas đứng kế bên, mang cây shotgun trên vai trông như cái gậy của người đi bộ. Anh ta đang bàn với Cheatham làm thế nào để tấn công vào mục tiêu dễ hơn.
Chẳng bao lâu sau, viên trung úy gọi một chiếc xe tăng hạng nhẹ có trí súng đại bác tiến lên phía đường Lê Lợi, bên hông phải của đại đội Hotel, dừng lại phía ngoài bức tường. Qua khỏi ngã tư phía trước, bên trái là toà Hành Chánh. Muốn có một xạ trường tương đối rõ, chiếc xe phải tiến lên một chút nữa, qua khỏi bức tường, chỗ khúc đường trống. Chiếc xe tăng hạng nhẹ ló mũi ra khỏi bức tường và cho nổ ba phát 106 ly vào hướng quân CSBV trong tòa Hành Chánh.
Ban Chỉ Huy của Christmas vẫn còn đứng trong sân khi có tiếng đạn bay ngang trên đầu. Rồi có tiếng nổ dữ đội như tiếng sắt thép chạm nhau. Người hiệu thính viên cúi xuống núp và nhăn nhó, trong phút chốc trông họ như những đứa trẻ đang run sợ bên cạnh Christmas và Thomas già dặn hơn, chẳng một chút nhúc nhích gì cả. Một tràng AK nổ ngay trên đầu. Vài giây sau, có tiếng một người trẻ gọi: “Y sĩ”.
Thomas và vài TQLC tiến lên trước. Viên thiếu úy và ba người lính trong đội xe đang ở phía sau bức tường nhà xe, ai cũng bị thương hoặc run vì tiếng nổ. Thomas buông cây shotgun xuống và quì bên cạnh người bị thương nặng nhứt, một anh lính rất trẻ, mũ sắt văng mất, nằm úp bụng xuống cỏ. Thomas lật anh lính bị thương nằm ngữa ra lại. Anh ta nói yếu ớt và chỉ vào mắt, có mảnh đạn nằm trong ấy.
Thomas nhìn lui chỗ ban chỉ huy, gọi: “Y sĩ lên đây.”
Họ đem người bị thương để ở phía sau bức tường bị đạn lỗ chỗ, tránh đường đạn nổ lốp bốp từ hướng tòa Hành Chánh bắn tới. Một y sĩ mở đường cho họ đi. Anh ta cẩn thận băng quanh mặt anh lính trẻ. Màu băng trắng dính đất cát. Băng che mắt người lính, anh ta bắt đầu rên rỉ: “Tôi bị thương, tôi bị thương.”
Phía trước, lính CSBV vẫn còn bắn vào nhà xe. Christmas quyết định tấn công địch, anh ta ra lệnh cho Trung Đội 1 tiến lên.

Chỉ huy Trung Đội 1: Thiếu úy Leo Myers, còn trẻ, mang kính trắng, chừa râu. Anh ta và mấy người lính của anh đang túm tụm bên ngoài nhà xe, chờ lệnh tiến quân. Họ chạy xuyên qua hai cánh cổng sắt để vào con đường ở mặt tiền tòa Hành Chánh. Cánh cổng đang mở và Thomas lo ngại lính của anh sẽ bị thương vong khi cố vượt qua cánh cổng ấy. Anh ta tìm được một góc phía sau cánh cổng, lấy một viên gạch đỏ cột vào đầu sợi giây rồi liệng qua cánh cổng, kéo cánh cổng ra và cột xuống đất.
Thiếu úy Myers cầm M-16, huơ tay ra dấu cho lính. Họ phóng nhanh vào cổng, ai cũng mang mặt nạ. Trung sĩ Berntson, Dye và thiếu tá Aloysius McGonigal, linh mục tuyên úy, cùng nhào vào tấn công cùng với trung đội. Dye hoảng kinh: Cái mặt nạ anh ta mang bỗng quá nóng, ngộp, anh ta chẳng thấy được quái gì hết.
Súng lại bắt đầu nổ. TQLC băng qua đường, tìm chỗ núp dọc bờ tường sân tòa Hành Chánh và hàng cây dọc theo lề đường. Quân CSBV bắn ngang trên đầu họ làm họ không nhúc nhích được. Christmas gọi một chiếc xe tăng hạng nhẹ lên tiếp sức. Một chiếc ầm ầm chạy lên. Christmas tới bên chiếc xe, mở máy truyền tin gắn sau xe, cúi xuống tránh đạn và chỉ điểm mục tiêu cho khẩu đại bác 90ly trên xe. Nhiều tiếng nổ như xé phát ra trong tòa Hành Chánh. Bỗng một trái B-40 nổ ngay phía trước chiếc xe tăng, mảnh bay tung tóe. Thêm một trái B-40 nữa nổ tiếp, Christmas không đeo được xe, té xuống. Chiếc xe tăng vẫn bắn.
Súng cối 81-ly của ban Chỉ Huy Đại Đội bắt đầu nổ chung quanh. Thiếu tá Salvati và nhóm của ông bắn thêm mấy quả hơi cay, lần nầy trúng ngay mục tiêu. Quân địch bắn ít đi và Christmas gọi điện cho Myers: “Tiến lên.” Trung đội cho nổ một lỗ nơi vách tường sân, tiến vào, khom mình xuống dưới nón sắt, áo giáp và đồ trang bị. Họ khom mình núp sau hàng cây và bức tường thấp bằng đá trong sân, rồi cứ mỗi lần hai hay ba người phóng như tên bắn vào tòa nhà chính. Cửa trước bị bắn bung ra, lựu đạn tống vào, TQLC tiếp tục bắn. Súng AK vẫn nổ từ bên trong và hai người lính TQLC xông vào đầu tiên gục ngay nơi cửa. Trong cảnh súng nổ dữ dội, linh mục McGonigal chạy tới và nằm xuống bên cạnh người lính vừa chết, làm phép thánh lần chót cho người nầy. Số TQLC còn lại quăng thêm lựu đạn vào nữa. Toán CSBV rút lui, súng vẫn nổ, bắn đuổi theo họ.
Trung đội 2, do trung sĩ John Miller chỉ huy, và Trung đội 3, do thiếu úy Mike Lambert, vượt qua đường cùng với Christmas và Thomas cùng ban Chỉ Huy Đại Đội. Việc đầu tiên Thomas và các TQLC làm là chạy ngay tới cột cờ, hạ lá cờ Cọng Sản xuống.
Tình hình trong khu vực tòa Hành Chánh được yên, các TQLC đứng nghỉ ở đó, ai nấy mệt nhoài, dựa lưng vào tường, nói chuyện với nhau bằng một giọng nói yếu ớt, không ra hơi. Thomas kẹp cây súng Shotgun giữa hai đầu gối, mở nút áo giáp, và kéo ra: Một lá cờ Mỹ.
Đối với TQLC đó là một hình ảnh đẹp.
Trước khi trận đánh bắt đầu, Cheatham và Christmas thảo luận về việc treo cờ. Theo luật pháp miền Nam Việt Nam, kể từ khi Mỹ được xem là khách của Việt Nam, trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam Cọng Hòa, không thể treo lên một lá cờ Mỹ mà không kèm lá cờ vàng đỏ của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, thật ra, chẳng ai muốn treo lá cờ Việt Nam lên đây. Đây là lính TQLC, với những bạn hữu của họ, những người vừa mới chết trên đường phố, họ không phải là binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Ông đại tá và các đại úy tự hào về chiến công của binh lính mình, vì vậy trong trường hợp nầy, luật lệ không được quan tâm tới.
Cheatham nói: “Chúng ta không có quyền treo lá cờ Mỹ ở đây. Nhưng chúng ta đã tiến lên, treo cờ và chẳng ai nói với chúng ta không được phép làm việc ấy. Chúng ta đang chiến đấu, chúng ta cần có lá cờ để giữ niềm tin. Tôi muốn mấy tay CSBV ở bên kia sông phải thấy lá cờ nầy.”
Thomas mới tới Việt Nam, nói với Christmas rằng ở quê nhà, mỗi sáng anh ta phải chào cờ. Mấy hôm trước, khi cấp chỉ huy nói với Thomas họ được phép treo cờ, Thomas biểu lính đi xoáy đâu đó một lá cờ. Không ai tìm ra. Họ lại được sai đi một lần nữa với chỉ thị là không có cờ thì không về. Họ kiếm được một lá. Có người nói là họ chôm lá cờ ở cột cờ MAC.V. Thomas chẳng cần lưu tâm lá cờ được lấy ở đâu. Anh ta ra trận với lá cờ xếp lại cất trong áo giáp.
Thomas, một người đã có gia đình, quê ở Camden, New Jersey, đúng là dáng dấp của một TQLC, ốm, dẻo dai, dửng dưng, chạm hình con rồng và con chó bull ở cánh tay trước. Tuy nhiên, trong 17 năm ở trong TQLC, anh ta chưa bao giờ ra trận. Huế là trận đánh đầu tiên, và chiếm tòa Hành Chánh tỉnh là phút giây huy hoàng của đời anh.
Đại úy Christmas quay về phía Thomas và la to: “Làm đi.”
Lúc ấy là vào khoảng quá 4 giờ chiều một chút. Thomas chạy tới cột cờ, nắm sợi giây. Súng vẫn còn nổ lốp bốp phía ngoài tường. Walter R. Kaczmarek, 19 tuổi, người mang máy truyền tin cho trung úy Myers và Alan V. McDonald giúp Thomas kéo cờ lên. Nhóm truyền hình của hãng thông tấn CBS và các nhiếp ảnh viên của TQLC/ HK quì trên sân cỏ, quay phim và chụp hình. Thomas kéo lá cờ “Sao và Sọc” lên giữa tiếng la hét hoan hô của TQLC. Christmas đưa tay lau nước mắt. Họ đã treo được lá cờ lên, phóng viên Don Webster của CBS mô tả lại trên truyền hình như sau: “Chẳng có người lính đứng thổi kèn chào và TQLC quá bận rộn không ai có thì giờ đứng nghiêm trước quốc kỳ, nhưng ít khi có được một lá cờ nào được kéo lên trong niềm tự hào như vậy.”
Tại ban Chỉ huy Đại đội, Cheatham gọi máy cho Bộ Chỉ Huy của đại tá Hughes tại MAC.V: “Chúng tôi đã chiếm được tòa Hành Chánh tỉnh và bằng mọi cách, một lá cờ Mỹ đang bay phất phới tại đó.”
Thomas, McDonald, Kaczmarek và Myers cùng một vài TQLC khác đứng sắp hàng cầm lấy chiến công của họ: lá cờ Cọng Sản họ vừa mới lấy được cho các phó nhòm chụp hình. Các TQLC ai nấy đều dơ dáy và mệt đứt hơi, râu tóc không cạo, trang bị nặng trĩu – nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi đánh Huế, họ cười to và sung sướng.
Thomas, súng Shotgun mang sau vai, gọi to, đùa với toán truyền hình CBS:
“Chúng tôi đang đói, Đại đội Hotel. Quay phim đi.”
Vài người cười to.
Một TQLC nói to với người quay phim: “Xong chưa, chúng tôi muốn ra khỏi cái địa ngục nầy.”
Người ta lại cười vì câu nói đùa.
Thomas rời khỏi đám người đang chen chúc quanh cột cờ và thở dài luyến tiếc. Anh ta cảm thấy tự hào, vui sướng và cả sợ hãi khi kéo lá cờ lên, và bây giờ thì anh ta cảm thấy hết sức xúc động, nước mắt lưng tròng. Anh ta một mình đi về hướng bức tường để tự trấn tĩnh. Bất thần, như có tử thần trên đường đi! Kìa, xa chưa được một thước phía trước, ngay phía chân tường, một người lính CSBV đang núp trong một cái hố, súng AK kẹp giữa hai đầu gối. Mắt họ thấy nhau.
Thomas chụp súng bắn mấy phát. Người lính CSBV cúi núp xuống hố. Thomas phóng mình qua một bên và gọi TQLC: “Coi mấy cái hố, coi mấy cái hố ở đằng kia.” Có khoảng gần một chục cái hố dọc theo các bức tường. McDonald và nhóm hỏa lực của anh xông tới, đi dọc theo bờ tường, nổ súng vào từng hố một. Chỉ trong ít phút, công việc xong. Lính CSBV chẳng bắn lại phát súng nào. TQLC giết 6 mạng trong các hố đó, mỗi người súng nằm bên cạnh.
Có một người lính CSBV sống sót. Anh ta còn trẻ, đi chân đất, kịp đưa tay lên hàng trước khi TQLC nổ súng. Hai người mang máy truyền tin, một đen, một trắng nắm cổ tay lôi anh ta đi.
Một lúc, sau khi thiết lập an toàn khu tòa Hành Chánh, một đại tá ở MAC.V gọi máy cho Christmas biểu phải tuân theo luật lệ, hạ lá cờ Mỹ xuống. Anh ta không tuân lệnh. Một lát sau, có hai đại úy Mỹ đến và nói với Christmas, họ đến để giám sát việc hạ lá cờ Mỹ xuống. Christmas nói với hai người nầy nếu họ muốn lấy lá cờ Mỹ đi thì họ cứ tự làm lấy, nhưng anh ta không bảo đảm binh sĩ anh ta không có phản ứng.
Các TQLC đứng lại để xem cấp chỉ huy của họ đối phó với hai viên đại úy. Họ kinh hoảng về việc hạ cờ. Chiến hữu họ tử trận chưa kịp mang đi, họ còn đang đấu súng với địch còn núp lén ngoài tường. Bây giờ thì có hai thằng cha xỏ lá tới đây nói chuyện thủ tục lễ nghi. Các TQLC càu nhàu: “Tao không thể tin được.” Họ nguyền rủa cuộc đời và mấy tên quân nhân kỳ quặc. Thomas cố trấn an họ. Nhưng Kaczmarek nạp một băng đạn M-60 và cằn nhằn một cách cay đắng với Berntson: “Nếu một trong hai thằng chó đẻ nầy đụng tới lá cờ là tao bắn tan xác nó.”
Hai viên đại úy đành về tay không.
Cuối cùng, một sĩ quan TQLC tại MAC.V can thiệp, và Christmas đồng ý cho hạ cờ xuống khi họ đã rút ra khỏi khu vực nầy.
Sáng hôm sau, sau một đêm pháo kích bằng súng cối, TQLC chuẩn bị lên đường. Họ hạ cờ xuống như không để lại gì nơi đó cả. Một sĩ quan nói với một phóng viên báo chí dân sự: “Nếu chúng tôi không treo lá cờ Mỹ lên đó thì chúng tôi cũng không treo một lá cờ nào khác.”
Thomas xếp lá cờ lại, bỏ vào gói rồi cùng binh sĩ tiến qua những ngôi nhà đổ nát bên cạnh.
Như Don Webster của hãng CBS thuật lại: “Ngay lúc nầy thì tòa Hành Chánh là tuyến đầu. Và họ đã chận được một cuộc tấn công. Trận đánh nầy làm cho họ nổi tiếng và một sự đánh giá lớn lao không phải thắng hay bại mà chính căn bản là ca ngợi lòng can đảm của họ. Lòng can đảm đó không thiếu gì trong hàng ngũ binh sĩ TQLC.”
CHƯƠNG 6: TỪ MAC.V ĐẾN PHÚ CAM CỦNG CỐ VỊ TRÍ PHÍA NAM SÔNG HƯƠNG
Sau khi Đại Đội Hotel củng cố an toàn toà Hành chánh vào ngày 6 tháng Hai, TQLC tìm ra bộ chỉ huy của quân CSBV. Họ thấy ở đây vũ khí, bản đồ, trang bị, giấy tờ và tiền bạc cùng nhiều tài liệu khác. Trung tá Cheatham nói với báo chí: “Chiếm được Tòa Hành Chánh là đánh vở mặt hậu của họ. Đó là công việc khó khăn. Bây giờ chúng tôi chỉ gặp phải những ổ kháng cự lẻ tẻ.”
Viên đại tá không quá chủ quan (tuy nhiên, không quá lạc quan như ở bộ Chỉ Huy cao cấp, tuyên bố tình hình Nam Huế ổn định kể từ 10 tháng Hai), nhưng về căn bản thì ông ta đúng. Tuần đầu tiên thì CSBV và Việt Côjng còn gây được áp lực. Sau đó đại đội 2/ 5 đã chiếm được khu vực Bưu Điện và Tòa Hành Chánh, củng cố vị trí của họ, đại đội 1/ 1 thì củng cố MAC.V và hai ngày chiến đấu đẩm máu tại trường Jeanne d’ Arc. Sau đó, ưu thế thuộc về phía TQLC. Đại Đội 2/ 5 tiến dọc theo sông Hương và Đại Đội 1/ 1, xa hơn về phía nam, hành quân dọc theo sông An-Cựu, tiến về phía bắc, đến sông Hương. Trong tuần lễ đầu tiên đó, TQLC chưa bao giờ bị đánh bật lui. Họ tấn tới, đánh từ nhà nầy qua nhà khác, từ khu nầy qua khu khác, củng cố vị trí vào ban đêm, tiến công vào ban ngày. Sức kháng cự của địch càng lúc càng yếu dần. Họ không còn sức chiến đấu, giữ từng phòng hay từng nhà như trước nữa và chủ yếu là phản công bằng bắn lén, pháo kích bằng súng cối hay hỏa tiển.
Cường độ trận chiến càng lúc càng yếu đi, thời gian phản ảnh chiến cuộc đã rõ hơn.
Một trong những vấn đề lớn trong hàng binh sĩ ở vài đơn vị, – và một trong những phản ảnh hoạt động của các sĩ quan trong quân đội – sĩ quan thì ngồi trong ghế bành chỉ huy các đại đội trưởng, các đại đội trưởng ngồi trong công sự chỉ huy các trung đội; các tiểu đoàn trưởng thì ngôi trên trực thăng, khuất tầm tác xạ của địch. Ở Huế có sự trái ngược với những điều như thế. Trong trận đánh, sĩ quan TQLC đi đầu, mức độ thương vong của sĩ quan cấp úy chứng minh như thế. Sĩ quan cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng thế. Mặc dầu đây chỉ là những trận đánh ngắn, rời rạc, nhưng cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng ở ngay tuyến đầu. Cả hai trung tá Cheatham và Gravel chia xẻ công việc cho nhau, tiến lên cùng với binh sĩ, ngay cả trong những lần đụng độ hết sức nặng nề. Đặc biệt Cheatham được nhiều người ca ngợi. Các phóng viên báo chí theo dõi trận đánh thường có khuynh hướng tốt về đại đội 2/ 5, viết về lòng can đảm cao độ của họ. Sĩ quan hành chánh của ông, thiếu tá Salvati, sau nầy tuyên bố:
“Mọi người biết công nghiệp của tôi trong lực lượng TQLC. Tôi dám mạnh bạo nói rằng đại tá Cheatam là một cấp chỉ huy hoàn hảo nhứt mà tôi có dịp phục vụ dưới quyền ông ta. Tài lãnh đạo của ông rất năng động. Chỉ trong những ngày đầu tiên của trận đánh, nhiều lúc dưới hỏa lực địch, ông đã xuất hiện chỉ rõ từng mục tiêu một để binh sĩ tấn công. Ông chỉ huy tiểu đoàn của ông theo đúng truyền thống tốt đẹp nhứt của một sĩ quan TQLC.”
Huế, có nhiều điều tự hào vì thực ra, (mặc dù đã gánh chịu tất cả những cuộc tuần tiểu tao-ngộ-chiến, những thất bại, và trì trệ ở An Hòa), TQLC đã đánh bại, giành thắng được một trận chiến cam go, dữ dội, đè bẹp được các đơn vị quân chính qui CSBV.
Đại úy Christmas nói với các phóng viên báo chí: “Quả thật đây là một trận chiến dành cho các người chỉ huy cấp tiểu đội, một phương cách chiến đấu. Các TQLC trẻ phản ứng rất cừ.”
Thiếu tá Salvati phát biểu: “Những người lính TQLC của chúng tôi ở Huế, nhìn chung đến từ trận thua ở An-Hòa. Đó là một trận đánh căn bản là ở ngoài đất nước chúng tôi, có phần cách ly với dân chúng. Hầu hết thì giờ là dùng để tuần tiểu. Thường khi đi tuần tiểu trên đường dễ bị phục kích; nếu không, đi trên đường thì lại dễ bị mìn bẫy. Các TQLC của chúng tôi thường không đụng lớn với quân CSBV. Vấn đề tinh thần gặp khó khăn. Tuy nhiên, ở Huế, tôi thấy họ là những người chiến đấu tài ba nhất. Những người trẻ nầy họ biết cách phải đánh nhau với địch như thế nào. Từng ngày, họ cải biến cách chiến đấu hay hơn. Họ tìm cách tác xạ và điều động, che chở nhau, xử dụng tài trí các loại chất nổ. Người bị thương nhẹ từ chối di tản vì họ tự nhận thấy có trách nhiệm hoàn thành chiến công. Họ cố giành cơ hội mặt đối mặt với kẻ thù và họ chiến thắng. Tôi trải qua những giây phút hết sức xúc động, hồi hộp chứng kiến người lính trẻ TQLC đã đem hết tài ba của mình giành lấy những gì họ đã giành được từ tay kẻ thù.”
“Tuy nhiên, trậnh đánh còn lâu mới chấm dứt. Trong khi gặt hái được những chiến công lớn lao, và kẻ địch bị đẩy vào vị thế chiến đấu càng lúc càng phản ứng kém đi, cũng còn cần phải quét sạch quân CSBV còn lén lút đâu đó. Các cuộc nổ súng gây nhiều tai hại. Sức kháng cự càng lúc càng yếu đi không có nghĩa là không còn thương vong. Những cuộc chạm súng như vậy chỉ ít đi mà thôi. Đối với người lính bộ binh, những người chỉ có cây súng M-16 và tài khôn khéo của mình giúp họ sống còn, mà trận chiến cũng chưa chấm dứt. Họ vẫn còn chiến đấu hàng ngày ở đó, trên đường phố, không mềm lòng, không xao lãng.”
Trung sĩ Burghardt cùng với trung đội của anh đang lục soát trong bệnh viện. Họ đang cố gắng vượt qua một khoảng sân trống trước mặt họ để tới dãy lầu bên kia. Hai bóng người bắt đầu băng qua. Họ chạy theo rãnh nước trong sân – bỗng có tiếng súng AK-47 nổ. Hai TQLC té xuống đất, bị thương.
Từ trên cửa sổ, Burghardt nhìn thấy cảnh ấy, gọi cho hai y tá đang núp bên trong với đồng đội. Anh ta biểu một y tá chạy ra kéo người bị thương vào. Người y tá anh ta ra lệnh là một người lùn, chỉ còn hai tuần nữa là tới phiên về nước. Anh nầy chần chừ.
Burghardt nổi giận, mắng anh ta: “Thằng chết nhát nầy.” Nói xong, anh ta phóng ra khỏi cửa. Anh ta chạy như bay trên đám cỏ, nhào xuống một cái hố. Súng nổ lốp bốp trên đầu. Anh ta nắm một trong hai người bị thương và kéo người nầy xuống hố với anh ta. Khi anh ta với lên để kéo người thứ hai thì bị địch bắn chết.
Trung đội xông ra và cứu họ.
Trung tá Gravel cùng Đại Đội Alpha di chuyển trên đường phố. Điểm đến là ngã tư gần tòa Lãnh Sự Trung Hoa Quốc gia. Quân CSBV bắt đầu pháo kích họ. Mảnh đạn văng vào tường gạch, mọi người tìm chỗ núp, nép người xuống hoặc bằng cách nào khác để tránh mảnh đạn. Gravel đưa mắt nhìn quanh, Canley đang đứng nghênh ngang giữa tiếng nổ. Anh ta tựa lưng vào cột đèn, súng trong tay chực nhả đạn, ra lệnh cho binh sĩ trong khi súng nổ dữ dội, rõ ràng hết sức nguy hiểm. Gravel kinh ngạc: “Chúa ơi! Bộ anh ta đang chờ xe bus chăng?” Chưa bao giờ ông ta thấy cái cảnh như vậy.
Trên đường rút lui, quân CSBV đã chọn một trong những người trẻ tuổi của họ, một “đồng chí” còn trắng trẻo, xích chân vào nhà và giao cho một cây súng để làm chậm đường tiến quân của TQLC. Người lính Cộng sản nầy tỏ ra không mấy nhiệt tình với sứ mạng được giao nên vội vã đầu hàng khi TQLC Mỹ tiến chiếm khu vực. Họ giao “chú lính sữa” cho trung sĩ tình báo. Tuy nhiên, các TQLC Mỹ cay cú vì bạn bè thương vong, nên bắt đầu đánh hay giết tù binh mà họ đã bắt trói. Người trung sĩ nói: “Hây! Thằng bé sợ lắm đấy. Nó sợ hơn bạn sợ đấy. Anh nghĩ là anh ngon lành khi đánh nó hay sao?” Người lính bước lui và lầm bầm: “Ồ! Thằng đê tiện, chẳng đáng để đánh nó.”
Trung sĩ Dickman, nhiếp ảnh viên của TQLC, chụp bức hình anh trung sĩ đỡ thằng bé đứng dậy. Đó là một ấn tượng mạnh mẽ cho thấy làm thế nào một người biết ứng dụng tâm lý một cách đơn giản để ngăn ngừa một vụ giết người.
Người tị nạn đổ xô ra khỏi nhà như dòng suối, chạy về hướng các TQLC Mỹ. Hạ sĩ Soukup và binh sĩ trong tiểu đội anh ta lãnh nhiệm vụ kiểm soát người tỵ nạn, chặn các người già và các bà mẹ đang bồng em để kiểm soát giấy tờ, truy tìm cán binh CSBV lẫn lộn trong dân chúng, tịch thu vũ khí của họ. Ai kiểm soát xong rồi thì được chỉ hướng chạy về MAC.V; ở đó có các cố vấn Mỹ và quân nhân QĐ/ VNCH chuẩn bị nơi tạm trú cho hàng ngàn người mới bị mất nhà cửa.
Có một ông già và một đứa bé tách ra khỏi nhóm người tỵ nạn, bỏ đi băng qua đám cỏ trước mặt các TQLC. Soukup thấy hai người nầy bèn gọi lại nhưng họ cứ chạy.
Soukup đưa súng lên và bắn một tràng đạn. Đứa bé té về phía trước nhưng cố gượng lên, bò bằng hai tay và đầu gối. Ông già chạy ngược lui chỗ thằng bé bị té, các TQLC khác nổ súng. Ông già cũng trúng đạn, ngã xuống. Một người khác bắn một quả M-79, đứa bé nằm im, bất động. Khi TQLC tiến lên để kiểm tra hai xác chết, họ không có giấy tờ gì cả. Lật xác ông già lên, thấy ông ta dấu một băng đạn của CSBV dưới áo. TQLC không biết chắc ông già thuộc thành phần gì, có thể là người cảm tình với Cộng Sản và cố tiếp tế đạn cho họ. Ông ta dắt đứa bé theo là muốn làm ra vẻ dân lành vô tội.
Trong tiến trình tác chiến ở đây, cạnh việc chiến đấu lại nảy sinh một vấn đề khó khăn mà TQLC phải đối phó. Đó là việc làm hư hao nhà của của dân chúng, vấn đề người chạy nạn và chôn cất người chết.
Các cố vấn quân sự Mỹ được giao nhiệm vụ đảm trách công việc nầy, một trong những chướng ngại cũng do từ phía người Nam Việt Nam tạo ra. Trung tá Phạm văn Khoa (Ông ta họ Phan, không phải Phạm – ngd), tỉnh trưởng Thừa thiên kiêm Thị trưởng thành phố Huế, là ứng viên lãnh trách nhiệm việc nầy. Xui xẻo! Ông ta không làm được gì cả.
Trong 5 ngày đầu tiên của trận đánh, ông ta bị kẹt lại đằng sau phòng tuyến địch, buộc lòng bỏ trốn cùng cận vệ. Tới ngày 5 tháng Hai, đại đội Fox 2/ 5 tìm thấy ông ta. Sau một cuộc chạm súng ngắn, vài CSBC bị giết trong một tòa nhà. Khi đại úy Downs vào, ông ta thấy một trung sĩ trong ban tham mưu của ông, đang giữ chức vụ quyền trung đội trưởng, đứng trước hai người Việt Nam đang bị bắt đứng giang tay úp mặt vào tường. Anh trung sĩ nói: “Chỉ huy trưởng, thằng ngốc chó đẻ nầy nói với tôi nó là thị trưởng thành phố Huế.”
Downs kiểm soát lại và tin rằng người Việt Nam đó nói thật. TQLC cho ông ta mấy cái kẹo, nước uống rồi chuyển ông ta về tiểu đoàn.
Việc Cộng sản tràn ngập là một sự kiện quá lớn đối với Khoa. Ông ta ngoan ngoãn, không đương đầu nỗi với tình thế, và quá nặng gánh lo cho gia đình, vẫn trốn cùng một nơi khi Cộng Sản kiểm soát thành phố Huế. Đến khi Đại Đội Golf 2/ 5 tìm ra gia đình ông ta vào ngày 10 tháng Hai, Khoa mới bắt đầu lo tới trách nhiệm của ông, nhưng ông vẫn chưa có kế hoạch kiểm soát cần thiết. Có một số binh lính VNCH tại MAC.V – Họ rời đơn vị từ hôm Tết và nay vẫn chưa liên lạc được. Nhưng khi một sĩ quan cố vấn đề nghị xử dụng các binh sĩ nầy thì Khoa lẫn tránh, nói rằng Khoa không có quyền hạn gì với họ.
Dù có hay không một ông thị trưởng gánh chịu trách nhiệm trực tiếp các vấn đề trên, nó cũng không thể bỏ đi được. Thiếu tá Jack E. Walker, quê ở Baltimore, một sĩ quan quân đội Mỹ thuộc cơ quan CORDS được chọn đảm trách công việc nầy. Để hỗ trợ cho ông ta, một trung đội thuộc đại đội Dân Sự Vụ 29 được gởi từ Đà Nẵng ra. Một trong những nhiệm vụ đáng ngại nhất mà họ phải thi hành là di chuyển và chôn xác chết. Nhiều xác lính CSBV còn để lại nơi họ bị TQLC bắn chết. Xác chết người dân còn nằm trong sân và trong đống ngói gạch ngỗn ngang. Các xác chết nầy đã sình thối và lôi kéo chuột tới. Vấn đề sức khỏe trở nên nghiêm trọng. Với sự giúp đỡ của Cảnh Sát Trưởng Huế, Walker lập kế hoạch đào những ngôi mộ tập thể, nhưng phía Việt Nam thì từ chối không làm và không muốn đụng tới xác chết. Vì vậy, các tù binh được lệnh mang xẻng cuốc đào huyệt chôn ngay nơi họ tìm thấy xác chết.
Về phía người sống, thiếu tá Walker thực hiện cuộc kiểm tra chưa chính xác, có khoảng 5 ngàn người tạm trú tại nhà thờ Công Giáo (Ở đây, các linh mục tổ chức tương đối tốt) và khoảng 17 ngàn người tạm trú tại trường đại học (Trường Kiểu Mẫu Huế – ngd). Walker và toán của ông phải chăm sóc cho 22 ngàn người tỵ nạn, nhưng lương thực thì thiếu hụt, y tế không đủ và dụng cụ vệ sinh cũng không có sẵn. Ông ta gặp trung tá Khoa để yêu cầu cung cấp lương thực cho dân chạy nạn. Khoa cho biết có tất cả có 25 kho gạo trong thành phố, đủ cho dân chúng xử dụng trong 2 tháng. Chính phủ VNCH sẽ cung cấp cho dân chúng. Walker yêu cầu cung cấp gạo ngay cho dân chúng vì tình hình khẩn cấp. Nhưng đến khi Walker lo gom gạo để phát cho dân chúng thì thấy không có gì hết. (Không bao giờ ông ta tìm được ai đã lấy gạo đi hết, nhưng ông ta chú ý thấy rằng dân chạy nạn có tiền thì vẫn mua được gạo. Một phóng viên báo chí điều tra thấy giá gạo chợ đen nhảy từ 20 xu lên tới 4 đôla một kýlô). Walker gởi điện khẩn cấp cho bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I ở Đà-Nẵng, yêu cầu cung cấp gạo cho dân chúng. Nhờ đó, người tỵ nạn được cung cấp 380 bao gạo một ngày. Có một vài vấn đề nhỏ khác: Khi có 21 miếng thịt sườn được cứu tế cho người tỵ nạn do Walker nhận từ Khoa và văn phòng của ông ta, thì sau đó có 6 miếng biến mất.
Nhờ có sự trưng dụng nầy mà dân tỵ nạn không ai bị đói cả.
Tại Bệnh Viện Trung Ương Huế, Walker phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn. Một số người tỵ nạn bị thương, người ta đang gặp nguy cơ có thể chết, nhưng chăm sóc y tế thì rất ít. Vấn đề vệ sinh rất nghiêm trọng. Người bệnh ỉa đái ngay tại chỗ và xác người rửa thúi ngay nơi họ ngã xuống. Nhờ sự giúp đỡ của nhân viên Dân Sự Vụ Mỹ của Văn Phòng Y Tế Công Cộng tại Quân đoàn I và bác sĩ người Úc là Froweys, xác chết được chuyển ra khỏi khu vực bệnh viện, đem chôn cất và bệnh viện được chùi rửa sạch sẽ. Bác sĩ và y tá người Việt trong thành phố đến giúp đỡ, cũng như một toán y tế của Hải Quân được gởi tới, người tỵ nạn được chích ngừa, bệnh viện mở cửa đón bệnh nhân.
Những quan tâm về tình hình trong khu vực trận địa đều được giải quyết tốt đẹp như người ta hy vọng. Tuy nhiên, về phía các nhà lãnh đạo ở Huế thì không chu toàn được nhiệm vụ của họ. Một tuần lễ sau khi trận đánh chấm dứt, một nhà viết sử quân lực Mỹ hỏi bao lâu thì chính quyền Việt Nam có thể tự đảm đương trách nhiệm một mình, thiếu tá Walker trả lời: “Chẳng bao giờ được cả. Họ quá ích kỷ, chỉ nhắm vào mình, sợ hãi và thiếu khả năng quản trị. Các sĩ quan trẻ sợ không dám quyết định, họ từ chối hoàn toàn và gặp phải đủ loại vấn đề rắc rối. Họ không có trách nhiệm, chúng tôi phải làm lấy.”
Một vấn đề xảy ra đằng sau chiến tuyến của TQLC là thổ phỉ. Ai cũng có hết. Một sĩ quan TQLC hết sức ngây thơ nghĩ rằng binh lính trẻ của anh ta đã vượt quá việc giải phóng những cái gọi là say sưa và tiền bạc tìm thấy trong những căn nhà trống. Suốt trong những ngày đầu TQLC đã “chôm” một số kính hiển vi ở viện đại học và khi đại đội 2/ 5 ổn định khu Kho Bạc rồi, một số TQLC bỏ túi một ít vàng thỏi. Một số TQLC từng làm quen với những người ăn mày nghèo khổ sống trong làng quê, ngạc nhiên trước sự giàu có của Huế, và có một số vật kỷ niệm bị lấy đi. Cũng có một số xe dân sự bị trưng dụng. Những thứ “chôm” được đó được đem ra xử dụng như mua đồ tiếp liệu, di tản người bị thương và ngay cả … hết xăng giữa đường.
Tuy nhiên, việc cướp bóc của TQLC có liên hệ đến vài lý do nhỏ nhặt. Trước hết, và quan trọng nhứt, các đại đội trưởng không khoan thứ cho một hành động cướp bóc nào. Lệnh nghiêm nhặt tôn trọng tài sản dân chúng và binh lính bị lục soát kỹ để ngăn ngừa việc cướp bóc. Thứ hai, TQLC không có cơ hội để cướp bóc của dân. Họ đang chiến đấu, luôn luôn phải tiến tới phía trước nên không có thì giờ để thực hiện những hành vi như thế. Họ chẳng có thể mang theo cái gì kềnh càng được. Mặc dù có vài hành vi cướp bóc nhỏ nhặt, báo chí vẫn tường trình việc ăn cắp ồ ạt. Chẳng hạn như nhà nhiếp ảnh Philip Jones Griffith tố cáo TQLC đã xé nát thành phố bằng việc cướp bóc chè chén say sưa. (Tin tức của Griffith sai lầm vì sự thực ông ta đã viết rằng TQLC ở Huế là những chiến binh rất nghèo khó).
Nhìn chung, việc cướp bóc ở Huế là từ người Việt Nam. Người tỵ nạn báo cáo nhà cửa họ bị ăn cắp. Những bị cáo lớn nhứt là binh lính Miền Nam VN. Vai trò của họ là quét sạch Cộng Quân sau khi TQLC Mỹ đã tiến qua, nên họ đi từ nhà nầy qua nhà khác để tổ chức băng nhóm cướp bóc, lấy bia, máy nghe nhạc, tủ lạnh, tiền bạc và các thứ khác. Trong một vài trường hợp, binh lính VNCH còn lục soát dân chúng và lấy những gì chúng muốn. Chỉ trong mấy tuần đánh nhau, việc các binh lính cướp bóc nầy lên đến mức độ không thể khoan dung được, đến nỗi các nhà lãnh đạo ban hành nhiều biện pháp quyết liệt: Xử tử những kẻ cướp bóc (1). Trung tá Gravel sợ những hàng chữ như TQLC Hoa Kỳ hãm hiếp, cướp bóc, và cưỡng đoạt các cổ vật trong Đại Nội nên ra lệnh cho các cố vấn Mỹ “Kể từ 12 giờ hôm nay, bất cứ binh lính VNCH cướp bóc sẽ bị bắn tại chỗ.” Ông ta còn nói thêm: “Tôi phải đổi hướng tấn công. Nếu cần, tôi sẽ làm như thế.”
Ông ta không cần phải làm như thế, cũng không có một lính TQLC nào bắn hạ một tên cướp bóc nào. Các cố vấn quân sự thông báo cho binh sĩ VNCH biết việc gì có thể xảy ra. Mặc dù việc cướp bóc không bao giờ chấm dứt hoàn toàn nhưng đã giảm thiểu nhiều. Nhưng tất cả kinh nghiệm còn lại là một chút chua xót nơi cửa miệng. Trung sĩ Dye ghi nhận: “Binh lính VNCH quả là bất trị, luôn luôn tìm cách ở sau xa TQLC khi chúng tôi chiến đấu ở khu Nam thành phố Huế. Sau một trận đánh cam go, tôi thấy chúng lái xe GMC tới cướp bóc tại những ngôi nhà chúng tôi mới đánh chiếm xong. Cũng có nhiều anh TQLC chó má về việc cướp bóc nầy nhưng tôi nghĩ rằng nếu binh lính VNCH không lợi dụng cái uy danh của TQLC qua các trận đánh ở đây thì họ đã đánh mất cái uy danh ấy rồi.”
Sáng ngày 7 tháng Hai, chiếc cầu thứ hai và cũng là cuối cùng trên sông Hương bị đặc công Cộng Sản đánh sập (2). Tuy nhiên, về chiến thuật không có gì ảnh hưởng nhiều vì bến tàu Hải quân vẫn còn hoạt động hữu hiệu.
Ngày hôm sau, bác sĩ Hamilton và 4 y tá chờ tàu thủy trở về lại Phú Bài. Họ đã ở đây 5 ngày. Một ngày sau khi họ thiết lập trạm y tế ở MAC.V, một trung úy VNCH tên là Ba (hay Bá? – ngd), người nầy khai tốt nghiệp bác sĩ ở Saigon, hăng hái giúp đỡ. Họ gọi ông nầy là bác sĩ Ba và ông làm việc hết sức mình để chăm sóc những người bị thương. Điều làm cho bác sĩ Hamilton hết sức xúc động về Huế là tinh thần của TQLC vô cùng anh dũng. Hầu hết những người lính trẻ sau khi băng bó xong đều xin trở lại đơn vị ngay. Cuối cùng, tất cả các bác sĩ sau hôm họp ở Đà-Nẵng đều trở lại thành phố, do đó, bác sĩ Hamilton nghĩ rằng đã tới lúc ông và nhân viên của ông trở lại Phú Bài.
Trời mưa nhẹ trên bến tàu. Bác sĩ Hamilton đứng nhìn đám người chuẩn bị ra đi. Có khoảng một chục người tỵ nạn Việt Nam, vài phái viên báo chí đang chụp hình và phỏng vấn, một vài TQLC, binh lính VNCH và khoảng 30 TQLC bị thương, vài người đi cà nhắc, đầu bị băng, đội nón sắt và áo giáp, vài người nằm trên cáng có che áo mưa. Sáu TQLC được bỏ vào bao bó xác chết.
Thỉnh thoảng có tiếng nổ lác đác gần đó. Có tiếng súng cối và lựu đạn. Hamilton chỉ lưu ý tới những tiếng nổ đó, tiếng nổ không gần lắm và có vẽ như càng lúc càng xa đi.
Một chiếc tàu đổ bộ (LCU) của Hải Quân cập bến. Người ta lên tàu. Những người chết và bị thương nằm trên cáng được chuyển lên. TQLC và dân chúng tập trung trên sàn tàu. Hamilton lấy làm lo. Chỉ một trái súng cối nổ trên sàn tàu sẽ làm cho khối người chết và bị thương. Chiếc tàu ra giữa dòng và từ từ chạy lên hướng Bắc, vào một con kinh đào gần bờ thành Thành Nội. Khi chiếc tàu đi vào một khúc sông hẹp, quân CSBV từ hai bên bờ bắn ra. Hamilton núp phía sau một cái thành sắt, nhìn ra sông. Cây cối dày đặc, bụi bờ, và cỏ ống. Lửa từ các họng súng núp dưới đất bắn ra.
Các TQLC còn đi lại được núp bên thành sắt trên tàu bắn trả. Bác sĩ Hamilton cũng chụp một cây súng M-16 cùng nổ súng với họ. Chẳng ai trên tàu bị thương. Tàu tiếp tục đi, chẳng bao lâu bờ thành khuất dạng, để lại tiếng súng phía sau. Rồi tàu lại quay vào sông Hương và hướng ra biển đông.
Hai ngày sau khi bác sĩ Hamilton rời Huế, một đợt tăng cường khác chuyển đến. Đó là trung đội đại bác không giật 4.2 inch, súng cối thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 11, Sư đoàn TQLC, dưới quyền chỉ huy của Pháo Đội Dã Chiến Số 1 LLDN X-Ray. Họ có 12 người và 4 súng cối, trung sĩ Reliss chỉ huy. Ông nầy là một TQLC thuộc loại cừ, một hạ sĩ quan. Khi trận Huế bắt đầu, trung đội ông có nhiệm vụ yểm trợ cho các đơn vị hoạt động ở Phú Bài – Phú Lộc. Họ được lệnh chuyển về căn cứ Phú Bài. Ngày 10 tháng Hai, sau ít ngày lau chùi súng đạn, tái tiếp tế, và tổ chức lại, trung đội được máy bay Sea Knight chở đến thành phố Huế.
Chiếc trực thăng gầm thét, lách qua lại để tránh đạn quân CSBV từ dưới đất bắn lên. Reliss và lính tráng của ông lót áo giáp mà ngồi, để tránh đạn từ dưới bắn lên. Chiếc trực thăng đáp xuống bãi đáp bên cạnh bến tàu Hải Quân, binh lính thoát ra cửa đuôi. Quân CSBV nổ súng. Những người bắn sẻ núp bên kia sông hay trên tường thành bắn qua, hai quả đạn súng cối hạng nhẹ rớt trên sông. Một toán súng máy trí súng trên bến tàu bắn trả, la to biểu đám súng cối di chuyển. Trung đội chạy nhanh tối đa, kéo theo cây súng cối nặng 650 pound.
Có mấy người đi sau để bảo vệ, chiến trực thăng lao vào bầu trời sương mù, tiếng súng tắt dần.
Sau 20 phút chờ đợi một chiếc xe GMC tới chở trung đội đi về hướng đông bến tàu, tới một địa điểm cách khoảng vài trăm mét. Họ được gom lại trong khách sạn Hương Giang, nằm bên kia đường đối diện với vị trí Đại Đội 1/ 1, phía bắc là sông Hương và hoàng thành. Ở đây TQLC gác cổng, nhưng chung quanh đó toàn là người Việt. Khách sạn Hương Giang đông đặc người tỵ nạn: đàn bà, trẻ em và ngay cả đàn ông còn trong tuổi lính. Trên xe, Edward M. Landry, một người trong toán của Reliss rất ngạc nhiên. Ở Quân Đoàn I, anh ta đã quen hiểu rằng tất cả những người còn trẻ hễ không ở trong quân đội VNCH thì là Việt Cộng.
TQLC chuẩn bị súng cối 4.2 inch. Thấy một người có vẻ lớn tuổi hơn, Landry hỏi: “Này, ông ơi, chúng tôi đi với ai đây?”
Người ấy trả lời ông ta không phải là xạ thủ, ông ta là thiếu tá đang làm việc với Đại Đội 1/1 và trung đội nầy sẽ hợp tác với tiểu đoàn của ông ta và Đại Đội 2/ 5. Rồi viên thiếu tá giúp họ chuyển vào một căn nhà trống bỏ hoang, cho họ tần số truyền tin thuộc hệ thống LLĐN X-Ray. Trung đội lo chuẩn bị đạn dược, dựng công sự quanh súng cối bằng thùng đạn đổ đầy cát vào đó, sẵn sàng nhiệm vụ chiến đấu sau khi đến Huế.
Còn có nhiều việc phải làm. Đối với Landry, 21 tuổi quê ở Lynn, Massachsetts, vào TQLC vì bộ Quốc Phòng gởi giấy động viên tới nhà, ở Việt Nam 6 tháng. Huế là nơi tồi tệ nhất trong thời gian của anh ở Việt Nam. Anh ta nghĩ Huế là nơi tiêu biểu nhứt, nếu dùng cho đúng chữ. Ở Huế, nhóm của họ có 12 người: Anh ta và trung sĩ Reliss, Dave Raby, George Schamberger, Billy Barr, Ed Shaw, Powell, O’ Neil, Edenfield, Miller, Torres, và Fuerst- Họ tự gọi họ là “Mười Chàng Dơ Dáy” bởi vì họ thiếu trang bị và kẹt giữa đống rác dơ dáy. Landry chẳng muốn thế. Đôi khi anh ta trông thật mệt mỏi và lo sợ, chỉ muốn khóc. Là một xạ thủ súng cối, anh ta chưa bao giờ cận kề với giặc như thế nầy. Chỗ nầy hôi hám vì xác chết bắt đầu sình thúi trong các đống gạch ngói vụn, mưa dầm và bầu trời u ám làm cho lòng anh thấy ảm đạm u sầu.
Hơi đạn cay xử dụng lưu lại trong không khí nhiều ngày làm cho việc hô hấp không được thoải mái. Máy bay trực thăng tới bãi đáp để thả đạn dược xuống và chuyển binh sĩ tử trận đi. Họ phải xử dụng thứ nước ở ngoài sông và bắn súng liên miên. Theo lý thuyết, có 7 người phụ trách một cây súng: Anh ta, Reliss, người truyền tin, tiền sát viên; họ chỉ có 4 người. Họ làm việc suốt ngày suốt đêm đằng sau công sự do họ dựng nên, lắng nghe tiếng chạm súng chung quanh, nghe tiếng gọi pháo trong máy truyền tin và bắn yểm trợ. Đạn cay, đạn nổ và đạn chiếu sáng ban đêm. Nhiều lúc tiếng của tiền sát viên, tiếng bộ binh gọi trong máy: “Lặp lại.” Gọi đi gọi lại nhiều lần, sau một loạt đạn bắn liên tục vào vị trí địch. Lặp lại, có nghĩa là tác xạ lại trên một mục tiêu. Quân địch đút đầu núp đạn. Landry nghe tiếng “lặp lại” không nhiều lắm. Ngủ rất ít, mệt thường xuyên. Một lần anh ta chui vào ngủ trong góc công sự, nằm cuộn lại dưới cái bàn trong phòng, mệt quá chẳng biết ra làm sao nữa cả. Khi mặt trời lặn, chỉ có vài khoảnh khắc là trời tối, thế rồi máy bay tới thả trái sáng, máy bay tới tác xạ, biến đêm thành ngày. Landry nghĩ ánh sáng hỏa châu như điều thần bí, làm cho mọi vật trở thành hư ảo, trông giống như nhìn vào địa ngục. Súng cối địch bắn liên tục, mấy tay bắn sẻ từ bên kia sông, phía Thành Nội bắn sang. Khi họ tới gần bờ sông, một lính CSBV nổ súng, Schamberger lăn mình tránh đạn, rồi nghe một tràng đạn sát trên đầu. Anh ta chụp cây M-16, quay tròn, thấy khói súng tỏa ra, anh bắn một băng vào cửa sổ, tiếng súng ngưng. Nhiều ngày sau, Landry mới rõ chuyện: Cổ áo dưới cằm anh ta thủng mấy lỗ vì đạn địch rồi bay trúng cánh tay O’ Neil đang đứng bên cạnh anh ta.
Cũng có những giây phút vui vẻ, như khi họ gặp mấy đứa bé mồ côi. Có một lần Schamberger đi vào MAC.V, một em bé gái tên là Lê (Li) báo động cho anh ta đừng đi vào con đường em bé đưa tay chỉ vì con đường đó, như em bé nói: “Beaucoup Vixi.” Lời báo động của em bé đã cứu mạng anh ta. Nhiều năm sau anh ta còn giữ ấn tượng sâu sắc đó nên khi sinh con gái, anh cũng đặt tên con anh là Sherri Li.
Mặc dù đêm đầu tiên của họ ở Huế thật tệ, họ vào ngủ trong khu vực MAC.V. Landry có nhiệm vụ phải đi gác. Anh ta đi tuần trên con đường một bên là các ụ súng và một bên là sông Hương, bỗng nghe có tiếng đạn xé trên không. Anh ta phóng xuống đất, bò như cua để tránh đạn và nhìn lên trời. CSBV pháo kích. Đạn lửa bay trong không gian vạch từng lằn vàng trong đêm đen. Cuối cùng, hết pháo kích, máy bay thả trái sáng, chiếu sáng toàn bộ khu vực.
Đêm nào trái sáng cũng thả suốt đêm, Landry có thể đánh cá với bạn hễ cứ 3 người TQLC thì có một anh mang dù trái sáng quanh cổ, cột quanh đầu hay đồ dùng.
Ban đêm, TQLC củng cố vị trí phòng thủ, gài mìn claymore phía trước và đặt vị trí canh gác cẩn mật. Đêm đêm, CSBV mò tới bắn lén hoặc quăng lựu đạn vào phòng tuyến TQLC, nhiều khi họ bị pháo sáng phát hiện và bị bắn chết tại chỗ như đã xảy ra ở Đại đội 1/ 1. Có đêm, TQLC nghe có tiếng động của kiếng và gạch ngói bể dưới chân người đi hay bò trong một căn nhà phía trước. Họ dùng M-16 và hỏa tiễn bắn xuyên qua cửa sổ. Một đêm, hạ sĩ Soukup và số lính còn lại trong tiểu đội của anh ta phải bỏ lại một cây súng đại bác 106 ly đằng sau một căn nhà và chui qua một lỗ vách để phòng thủ chung với binh sĩ Đại đội 2/ 5. Phía trước nhà, ngoài sân là một bức tường; phía sau đó, quân CSBV đang giữ một khu nhà. Nếu có anh CSBV nào trong bọn họ lẻn qua được vách tường đó vào khoảng nửa đêm thì có thể đó là điều chẳng lành cho mọi người.
Soukup và một TQLC khác đặt một vị trí nghe ngóng bên bức tường.
Họ gọi thầm báo cho nhau, gom vũ khí rồi bắt đầu bò thật thấp qua một cái sân cỏ. Họ ép sát vào tường, rồi ló đầu lên trên bờ tường quan sát. Cảnh thật đẹp. Trăng sáng. Họ có thể thấy một ngã tư trước mặt. Nhà cửa trông màu xám, cửa sổ thì đen. Mọi vật đều yên tĩnh. Đúng là yên tĩnh. Họ ngồi như thế khoảng 2 giờ đồng hồ, tay đặt trên súng, quan sát, chờ đợi. Chẳng có gì xảy ra cả. Bỗng tự nhiên họ thấy lo. Nếu có ai trong bọn họ thấy lâu không có động tĩnh gì cả sẽ bò ra đây và chuyện rủi ro có thể xẩy ra. Họ quyết định ngồi nín thinh cho tới sáng, ba hồi ngủ ba hồi thức canh.
Soukup đang ngủ gật gù bên bờ tường thì bất thình lình đồng đội đánh thức dậy. Anh nầy cúi xuống thầm thì nghe có tiếng gì đó bên kia đường, anh ta chắc có gì đó. Soukup hé nhìn qua tường.
Bốn lính CSBV nhảy ra đường.
Đồng đội của Soukup bắn một quả lựu đạn, mảnh bay tung tóe trên mặt đường. Soukup bắn thêm một băng M-16 rồi cả hai phóng mình nằm sát xuống đất. Đạn từ bên kia đường bắn sang bay ngang trên đầu họ, đụng vào vách tường kêu lụp bụp. Soukup vừa bò vừa chạy về hướng nầy còn đồng đội của anh về hướng kia rồi cả hai vòng lui cửa sau ngôi nhà. Họ hô mật khẩu và nhảy vào trong.
Họ kiểm tra tình hình, mọi người đều đủ mặt, ai cũng bình an.
Tới khi mặt trời lên, họ tiến qua phía bên kia đường. Căn nhà trống không. Địch đã rút lui trong đêm. Họ thấy có bốn CSBV chết chụm vào nhau trên đường, súng đạn và xắc mang lưng còn y.
Trung tá Gravel đặt ban chỉ huy gần QL. 1, tại địa điểm mới chiếm lại được. Chỗ nầy gần trường học, ngôi trường CSBV đã chiếm trong trận đánh với TQLC vào hôm đầu tiên. Gravel nhận được lời cám ơn đã đánh đuổi được Cộng Sản ra khỏi khu vực nầy. Một linh mục Công Giáo tại một trường dòng nói với Gravel nhiều trẻ em của viện mồ côi núp đầy trong các lớp học. Hôm 10 tháng Hai, mấy TQLC của Đại đội 2/ 5 đã hộ tống vị Tổng Giám Mục được giải thoát về lại Trường Dòng ở gần ban chỉ huy của Đại Đội 1/ 1. Gravel đến thăm đức Tổng Giám Mục. Đức Tổng Giám Mục, tóc đã ngã bạc, mang một cái thánh giá lớn bằng bạc trước ngực, mời Gravel tham dự buổi lễ tạ ơn cùng với đông đảo con chiên trong giáo xứ, cầu nguyện cho việc tái chiếm thành phố Huế được thành công tốt đẹp. Bằng một thứ tiếng Pháp không được trôi chảy, Gravel trả lời đồng ý với Giám Mục và ra lệnh cho TQLC ai muốn thì có thể tham dự lễ với Gravel vào lúc 9giờ30 ngày hôm sau. Một cách trùng hợp, buổi lễ diễn ra vào ngày Chủ nhật, 11 tháng Hai. Gravel cùng vài TQLC đến thăm một nhà nguyện của Trường Dòng với các linh mục. Ông ta bị xúc động bởi một điều: Có 4 lỗ đạn đại bác 90ly bắn thủng vách tường mặt tiền, nhưng các khung gỗ thì còn nguyên.
Đêm hôm trước lễ tạ ơn, Cộng Sản lại tấn công.
Vào khoảng nửa đêm, Gravel trở lại ban chỉ huy khi Cộng Sản bắt đầu pháo kích bằng hỏa tiễn 120 ly. Không có công sự để ẩn núp nên ai cũng ngồi xuống, giữ lấy nón sắt và nghiến răng chịu đựng. Trận pháo kích kéo dài 5 phút, vài tiếng nổ nhanh. Bụi cát bay tung lên và TQLC thò đầu ra canh chừng địch. Thiệt hại nặng nhứt là một chiếc GMC trúng đạn. Chẳng bao lâu người ta mới thấy đau lòng tại sao TQLC chẳng hề hấn gì. Hầu hết hỏa tiễn đều bắn không tới mục tiêu, nổ bên Trường Dòng của Giám Mục. Trẻ con được tập trung vào đây làm nơi ẩn trú nên khoảng 20 em bị chết, 40 bị thương nặng. Một linh mục chạy qua ban chỉ huy của Gravel cầu cứu. Gravel gọi máy cho đại tá Hughes, được mấy phút, y tá và xe GMC đến cứu giúp. Các em bị thương nặng đều được chở xuống bệnh viện Quân Đội Hoa Kỳ ở Phú Bài.
Binh lính TQLC xúc động thấy rõ, còn Gravel giận muốn sôi lên. Cộng Sản chẳng tôn trọng luật lệ gì cả, chẳng quan tâm người bị họ giết là ai.
Ngày 11 tháng Hai, Đại đội Fox 2/ 5 chiếm xong một khu gia cư ngó xuống cây cầu bắc ngang sông An-Cựu, phía nam ngã ba sông đào nối với sông Hương, (Khu cư xá đại học, gần cầu Ga – ngd). Như thế, đại đội nầy đã quét dọc theo con đường đi về phía tây, từ MAC.V đến bờ phía đông sông An-Cựu. TQLC dừng chân ở khu cứ xá nầy, khám xét tất cả tác tòa nhà, lục lọi từng hộc tủ, và vì vậy, đã xoáy một số vật kỷ niệm. Trung sĩ Carter tìm thấy một hộc tủ đầy thư từ, hình ảnh của một người đàn ông da trắng và vợ ông ta. Một trong số hình đó, có hình người đàn ông mặc đồng phục sĩ quan Quân Đội Đức Quốc Xã hồi Thế Giới Chiến tranh Thứ hai. Trung đội ba thì tìm thấy một vài hộp thịt heo muối cũ khẩu phần ăn của Quân Đội Mỹ, nên quyết định làm ngay một món ăn với thứ thịt đó.
Trung đội 2 bên kia đường thì “giải phóng mấy con gà”, và trung đội 3 mua lại bốn cái trứng với 4 đôla. Carter gần như muốn bệnh khi đập trứng vỡ ra. Lòng đỏ thì bầy nhầy màu xanh rêu. Anh ta chẳng đụng tới, nhưng có mấy tay cực kỳ ngoan cố thì đem nấu và ăn hết. Đại úy Downs đem tới mấy ống nước và bọn họ dựng ngay một chỗ tắm ngoài nhà xe. Trời thì lạnh mà nước gần như đóng băng, nhưng chẳng ai thèm quan tâm. Lính TQLC thấy khoái khi tuột áo quần dơ và chà cho sạch các vệt máu khô, mồ hôi và đất bùn.
Khi mọi sự đang diễn ra ngon lành như thế, trung đội 3 nhận thêm lính đến bổ sung, một nhóm lính tóc húi-cua, áo quần còn sạch sẽ mới tới Việt Nam. Thiếu úy Hausrath đưa mấy anh lính mới nầy vào trong nhà nói chuyện với họ. Trước hết, anh ta và trung sĩ trung đội gọi điện yêu cầu bắn súng cối vào mấy tòa nhà bên kia sông mà họ nghi là có CSBV núp bên đó, bắn sẻ qua bên nầy. Mấy trái súng cối rớt ở phía xa bờ bên kia, vào các mục tiêu chết. Hausrath hứng chí tới gần bên cửa sổ để quan sát.
Thình lình, bên kia bờ một tràng đạn AK nổ dòn.
Người Hausrath giật ngược lên, té xuống nền nhà, đạn trúng ngực anh ta. Các chú lính mới nằm xuống, lăn bò càng, mắt mở to kinh ngạc. Hausrath thở được ít phút, mắt trợn ngược và chết.
Hạ sĩ Allbritton bước tới mấy bước báo tin hạ sĩ Burnham.
Burnham thì thào: “Trời ơi, tôi mới đi theo anh ta.”
Carter cảm thấy buồn vì cái chết của thiếu úy Hausrath. Anh ta thường không thích sĩ quan lắm vì những qui định nầy nọ và lạm dụng quyền hành. Hausrath là một sĩ quan mới ra trường nhưng tuồng như lúc nào anh ta cũng đúng. Anh ta thường chăm sóc lính tráng của mình, chia nhau từng cái bánh và tạp chí Playboys mà người yêu của anh ta gởi cho, chẳng bao giờ nói mãi cái câu: “Thi hành đi, tôi là cấp chỉ huy”, câu thường nghe trong trung đội. Anh ta được mọi người kính trọng và yêu mến. Có một lần trước khi trở lại Huế, khi viên thiếu úy nầy mới tới và đang chờ hành quân, Carter đang gắn một trái mìn chiếu sáng vào trái mìn claymore, anh ta vô tình làm cho trái mìn claymore nổ, bay mất mấy ống phát hỏa, Hausrath từ ban chỉ huy chạy bổ xuống, một tay cần mũ sắt, một tay cầm M-16. Khi thấy mọi sự, anh ta mắng Carter. Nhưng kể từ khi thấy Carter đứng đó trông như con cừu. Tự nghĩ lại mình, và làm y như kiểu của John Wayne, anh ta cười to lên.
Khi đại úy Downs nghe tin, anh ta vội chạy tới vị trí Trung đội 3. Cái chết của viên thiếu úy làm cho anh ta choáng váng. Chỉ mới 4 ngày trước, người hiệu thính viên rất được anh ta yêu mến bị Cộng Sản giết chết. Anh nầy trẻ, đẹp trai, biệt danh là Red. Họ đang lục soát từng nhà dọc theo sông Hương thì súng nổ, đạn bay chéo trên đầu ban chỉ huy đại đội. Downs không hề hấn gì nhưng Red thì ngã xuống ngay bên cạnh. Bây giờ thì bọn bắn lén giết Hausrath. Tình thế khó khăn. Viên đại úy gọi những người thuộc Trung Đội 3 có mặt từ ngày đầu lại.
Họ tập trung sau tòa nhà gạch. Hạ sĩ Allbritton kinh ngạc nhìn quanh. Toàn bộ chỉ còn có 12 người. Ngoài tiểu đội của anh, chỉ còn có anh ta, hiệu thính viên và một anh chàng trẻ biệt danh là Moses. Downs bắt đầu nói chuyện với họ. Anh ta nói: “Các bạn chiến đấu thật kỳ diệu. Điều tôi muốn là chúng ta có một đại đội trưởng giỏi hơn.” Rồi anh bị bị xúc động. Mọi người thấy anh chảy nước mắt. Allbritton nghĩ: “Anh ta giỏi đấy. Đại úy là một người tài giỏi.”
Thiếu tá O.K. Steele, TQLC, sau khi vào Huế đã gặp khó khăn. Ông ta to cao, đẹp trai, 35 tuổi, có gia đình ở tại Oakland, California, hết sức trầm lặng và thông minh. Trước Tết, ông ta được giao một công việc không mấy thích thú là sĩ quan tại ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, hậu cứ sư đoàn 1 TQLC tại Đà-Nẵng. Ông ta nói chuyện với đại tá Bohn và cố giành một công việc ở trung đoàn như là sĩ quan quản trị của Đại đội 2/ 5. Ông ta được phân công với một người bạn cũ, thiếu tá Salvati, ông nầy còn vài tháng nữa thì đến phiên về Mỹ.
Lệnh bàn giao có hiệu lực từ 1 tháng Hai nhưng ông ta bị kẹt ở Đà-Nẵng vì đặc công và pháo binh tấn công ngoại vi trong khi Salvati thì đang đánh nhau với địch ở Huế.
Cuối cùng, sau mấy ngày Steele đi nhờ được chuyến bay của chiếc trực thăng khổng lồ CH-53. Phi công thay vì bay trên đất liền phải vòng ra ngoài biển Đông và khi vào đất liền, ông ta phải ghì chặt vào máy bay vì máy bay phải bay đảo để tránh phòng không. Tại Phú Bài, Steele báo cáo cho bộ chỉ huy Trung Đoàn 5 TQLC của đại tá Bohn rồi đi thăm ông nầy sau khi đi quan sát sân bay. Ông ta không thể đi Huế được vì thời tiết xấu và máy bay đi Huế thì chất đầy đạn dược. Vài ngày sau, ông ta được lệnh báo cáo cho sĩ quan quản trị của Sư đoàn 1/ TQLC. Ông nhận lệnh làm chỉ huy trưởng đoàn xe đi Huế, chở thiết bị đi sửa cầu An-Cựu. Theo tin báo cáo, cầu bị thủng nhiều lỗ trên mặt cầu. Steele có một toán lính sửa cầu không chuyên nghiệp: Một thiếu úy và một tiểu đội súng trường của Đại đội 2/5, toán bắn sẻ, toán yễm trợ pháo binh, công binh biệt phái với xe GMC chở đầy gỗ, xe cần cẩu, thiết bị thay thế và thương binh mới xuất viện. v.v…
Thiếu tá Steele có khoảng 120 người, chẳng có ai là người ông quen biết trước kia.
Buổi sáng ngày 10 tháng Hai, họ lên đường, chạy hết tốc lực trên QL 1 bởi vì ai cũng ngại bị phục kích, nhưng người ta chỉ thấy TQLC của các đơn vị hỗn hợp Việt-Mỹ đứng gác cầu. Bộ Chỉ huy LLĐN/ X-Ray báo cho Steele biết Đại đội 1/ 1 chưa củng cố an ninh tại khu vực An Cựu/ Phú Cam, nên ông ta phải dừng lại tại tháp phát thanh cách Huế khoảng 1 Km. Họ dừng lại lập phòng tuyến kháng cự bằng các xe GMC và các xe tăng hạng nhẹ hộ tống. Steele đưa mắt nhìn 3 cái tháp cao tự hỏi tại sao địch không đánh sập những tháp nầy.
Họ chờ ở đây hết ngày. Vài người tỵ nạn chạy ngang bằng xe đạp. Vài lính Cộng Hòa mang súng bên vai đi ngang đưa mắt dò hỏi, nói lúng búng và nhe răng cười như họ vừa đi chơi ở công viên về. Mọi người đều đi ngược hướng về Huế.
Tới khi trời tối, LLĐN X-Ray gọi Steele ra lệnh cho đoàn xe quay lại Phú Bài.
Sáng hôm sau, họ lại lên xe. Có lệnh cho biết một đoàn xe từ Phú Lộc sẽ đến với lực lượng tăng cường Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5/ TQLC. Họ chờ hết cả buổi sáng nhưng chẳng thấy đoàn xe từ Phú Lộc tới. Bộ chỉ huy LLĐN X-Ray lại ra lệnh cho đoàn xe của Steele lên đường. Xe chạy nhanh qua ba cái tháp phát thanh hôm qua, và Steele đứng trên lưng chiếc xe tải chở ban chỉ huy, nhìn cái xe cần cẩu lắc lư ở phía sau. Tới ngoại ô thành phố Huế, xe dừng lại và Steele cho đoàn xe tải quay lại Phú Bài với một nhúm bộ binh giữ an ninh. Xong Steele ra lệnh cho các trung đội hỗn hợp của ông ta thám sát phía trước và củng cố an ninh cây cầu An Cựu. Không có súng nổ. Trong vòng mấy phút, viên thiếu úy trung đội đi đầu gọi điện báo cáo cho Steele và họ cùng xe tăng và xe cần cẩu tiến lên cầu.
Cầu An Cựu dài khoảng 100 bộ, đúc bằng xi-măng. Phần trung tâm đã bị hỏng sụp xuống. Hai đầu cầu còn dính vào bờ. Nước chảy ở giữa. Mấy cây sắt móng cầu lồi ra, xoắn cong lại trông như cọng bún khô.
Steele và viên đại úy kỹ sư đứng trên bờ quan sát sự thiệt hại.
Steele nói: “Được! Tiến hành đi, nối nó lại.”
Viên đại úy nói không thể làm được. Việc nầy vượt ngoài khả năng của anh ta. Người ta báo cho anh biết chỉ có mấy lỗ thủng giữa cầu. Anh ta chỉ đem theo vật liệu để vá cầu mà thôi. Steele nghĩ trong lòng muốn đá anh kỹ sư nầy một đá cho rớt xuống sông. Tất cả mọi việc rồi chẳng ích lợi gì hết. Sau nầy, anh ta mới biết cây cầu sập đã một tuần. Vậy mà 7 ngày qua, LLĐN X-Ray vẫn nghĩ rằng cây cầu chỉ bị mấy lỗ thủng ở giữa. Tin tình báo quả thật là tệ.
Ông ta gọi điện cho Phú Bài, báo cho biết cây cầu không sửa được nữa và khuyến cáo nên trì hoãn bất cứ một sự tăng phái nào của 1/ 5 cho đến khi cầu sửa xong. Xong ông ta gọi điện cho trung tá Cheatham, báo cho biết đã tới địa điểm và báo cáo cho tiểu đoàn mới của ông. Viên đại úy kỹ sư nói có thể dựng nhanh một cái cầu cho người đi bộ. Steele ra lệnh tiến hành và bố trí binh lính ở những căn nhà hai bên bờ sông. Bờ bên kia trông có vẻ an toàn, nhà cửa không bị hư hại, ngoại trừ mấy lỗ trên vách tường bị bắn thủng. Ông ta có thể thấy TQLC trong những căn nhà ấy. Người Việt Nam đội nón lá đi bên bờ sông. Steele và viên thiếu úy thuộc Đại Đội 1/ 1, anh nầy mang cây Shotgun và nóng lòng muốn về với đơn vị, tìm thấy một cái xuồng gần cầu. Họ lội xuống quăng áo quần và súng vào chiếc xuồng rồi chèo qua sông trong nước lạnh giá. Họ cố cúi đầu xuống, đề phòng bị bắn sẻ.
Qua bên kia bờ, họ mặc áo quần vào và đi tìm TQLC trong các ngôi nhà gần đó. Họ là người của Đại đội 2/ 5 nên Steele đi tìm đại úy Meadows. Viên đại nầy, ốm và mang kính trắng làm Steele nhớ lại hình ảnh các ông thầy giáo. Meadows như bó rọ trong cái áo giáp của anh ta, M-16 vác trên vai, mặt mày hốc hác, râu mọc dài, mắt đầy vẻ mệt mỏi. TQLC có mấy anh trinh sát, và mấy chiếc xe bị trưng dụng ở đây. Meadows đề nghị Steele tới ban chỉ huy tiểu đoàn. Anh ta leo lên một chiếc xe của trinh sát, xe nầy lỗ chỗ vết đạn. Anh ta đeo chặt vào xe trong khi tài xế TQLC rú ga chạy hết tốc lực vượt qua một ngã tư.
Họ đến ban chỉ huy theo cung cách giống nhau như vậy. Steele quen biết nhiều người ở đây. Cheatham từng là một cán bộ đại đội khi ông ta mới nhập ngũ ở trại huấn luyện. Salvati đã nhập trường sĩ quan với ông ta. Ông ta cũng đã phục vụ dưới quyền chỉ huy của Christmas và Downs trước khi tới Việt Nam. Steele chính thức nhận chức vụ sĩ quan quản trị do Salvati bàn giao lại. Cheatham khuyên ông ta nên trở lại và giữ lực lượng phòng thủ qua đêm.
Ông đại tá nói rằng Đại đội Hotel của Christmas sẽ giữ an ninh một cây cầu còn nguyên gần khu gia cư. Sáng mai họ có thể qua cầu được. Mặc dù không biết chuyện ấy và mặc dù có lời khuyến cáo của thiếu tá Steele về cây cầu, lực lượng tăng cường từ 1/ 5 đã sẵn sàng nhiệm vụ của họ.
Các TQLC của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5, Sư đoàn 1 được lệnh leo lên 8 chiếc xe GMC chạy chậm chậm qua con đường bùn và lá rụng phủ đầy dưới bầu trời âm u và thấp. Các TQLC ngồi trên sàn xe, súng đạn để đống quanh họ. Trời gió bấc lạnh khó chịu. Có một anh nhà báo chen chúc với họ. Đó là Michael Herr, người lùn, mang kiếng cận thị dày cộm, phái viên của tạp chí Esquire. Anh ta may mắn ở trên chiếc xe giữa đoàn xe. Đầu đuôi đoàn xe thường là mục tiêu dễ bị phục kích. Tuy nhiên, TQLC và anh bạn phóng viên của họ an tâm cho rằng sẽ không nổ súng. Trên đường, họ thấy hàng trăm dân tỵ nạn rời Huế chạy về phía nam. Trẻ em thì trông có vẽ thích thú và thân thiện, trong khi người già thì nhìn chằm chằm vào họ với vẽ mặt vô tình như thường thấy.
Binh lính đang nói chuyện, huýt sáo và hút thuốc. Herr ghi nhận: Trông có vẽ như ở khu thay quần áo trước trận đấu bóng mà chẳng ai hứng thú gì cả.
Phía trước, họ có thể thấy khói đen ở Huế đang bốc cao lên.
Khi tới cầu An Cựu, TQLC, Herr và các phóng viên báo chí khác xuống xe. Họ gặp trung sĩ Dye, phóng viên chiến trường của Sư đoàn 1/ TQLC. Herr lưu ý Dye, anh ta không phải là một TQLC bình thường. Dye, 23 tuổi, quê ở Girardeau, Missouri, cao, gầy và đẹp trai, khôn ngoan và nhạy bén. Trên lưng áo giáp, anh ta vẽ hình Alfred E. Newman với khẩu hiệu: “Có điều chi? Tôi lo lắng!” Và dán lên vải bọc nón sắt một bông hoa màu vàng bằng plastic mà anh ta nhặt được trong trận đánh ở khu nam Huế. Anh ta và người cộng sự, trung sĩ Berntson chui vào một ngôi chùa Phật. Phía trước bàn thờ là một bình cao cổ cắm hoa màu vàng. Sau bình hoa là tượng Phật. Berntson ngồi nghỉ trong chùa, rồi đi vòng quanh xem cách trang trí. Bất thần anh ta thấy có bóng người chuyển động phía sau tượng Phật nên nổ súng. Tượng Phật và bình hoa bể tan, một anh lính CSBV té nhào ra phía trước. Berntson lấy một cái hoa trong bó vừa rơi ra khỏi bình, gắn lên tấm vải che nón sắt của Dye và nói rằng hoa đó tượng trưng cho việc cứu mạng Dye.
Cái hoa trở thành một mục tiêu rõ ràng cho những tay bắn lén nhưng Dye đã quen và cứ để như vậy. Thiệt là một hành động điên khùng.
Việc ấy xảy ra đã hai tuần. Bây giờ anh ta đứng đây, nói chuyện với Herr và các người khác, đảo mắt và nhe răng ra cười dưới bộ râu quặp.
Thiếu tá Steele trở lại, lội qua sông để về với ban chỉ huy của ông ta, thấy TQLC của đơn vị 1/ 5 chuẩn bị sẵn sàng đâu đó để lên xe, ông ta ra lệnh phòng thủ chu vi. Khi các phóng viên báo chí muốn qua sông An Cựu để vào thành phố, ông ta nói với họ phải chờ tới ngày hôm sau và biểu họ vào trong một căn nhà bỏ hoang. Ông ta sợ cho họ vì ông ta bị buộc ở lại đây ban đêm.

Ông ta leo lên tầng ba của một căn lầu, để từ đó có thể quan sát toàn bộ khu vực. Vừa lên tới mái thì Steele thấy hai chiếc trực thăng có trí súng đại liên của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay tới, bay sát mặt sông. Ông ta nhìn mà không tin được: Đại liên trên máy bay nổ bùm bùm, võ đạn rơi loảng xoảng trên mặt đường.
Dye, Herr và một vài TQLC bước nhanh trên đường, dọc theo bờ sông, vừa đi vừa mở hộp phần ăn tối để ăn, bỗng nhiên có tia đạn lửa bay tới phía họ. Anh ta cùng mấy người trong nhóm lăn người xuống tránh đạn. Thức ăn và nón sắt văng ra. Chỉ trong mấy giây, chiếc trực thăng bay mất. Họ đứng dậy, ngạc nhiên hơn là sợ. Cũng may, chẳng ai bị thương.
Họ trải qua đêm trong những căn nhà trống bên bờ sông, ngủ trên những tấm áo mưa trãi trên gạch và kiếng bể. Dọc theo bờ sông, bên phía trái, hướng tây bắc, hỏa châu và súng bắn suốt đêm.
Chiếc cầu Ga Huế nằm ngang sông An Cựu vẫn còn nguyên. Cầu nầy ở gần chỗ sông đào nối với sông Hương, phía tây bắc chỗ đóng quân của Steele. TQLC giữ phía bờ đông, quân CSBV giữ bờ tây. Phải cũng cố an ninh phía bên kia mới có thể tăng cường đơn vị qua sông được. Do được súng cối yểm trợ, Trung đội 1 của thiếu úy Myers thuộc Đại đội Hotel được giao nhiệm vụ qua cầu và đóng chốt phía bên kia. Lệnh là phải giữ vị trí suốt đêm. Họ đã hoàn thành.
Đó là trận đánh gay go – hai tiểu đội trưởng nổi tiếng bị giết. Thiếu úy Myers cũng hăng hái tham gia trận đánh, ném lựu đạn – tuy nhiên, sáng ngày 12 tháng Hai, TQLC của Đại Đội Hotel vẫn chưa di chuyển. Trên sông đào, cùng với nhóm của thiếu tá Steele, trung đội trinh sát và TQLC của Đại Đội 1/ 1 được biệt phái qua cầu làm điểm tựa cho công binh, bắt tay được với đơn vị tiểu đoàn của họ. Steele cùng nhóm còn lại của lực lượng ông ta và lực lượng tăng cường của Đại Đội 1/ 5 bắt đầu quét địch dọc theo bờ sông. Họ ngạc nhiên vì chẳng thấy tay bắn sẻ nào cả. Qua hai giờ đồng hồ quét dịch dọc theo con sông, họ gặp Đại Đội Hotel vẫn còn đóng ở cầu. TQLC giữ vị trí quan trọng đó, rồi cẩn thận tiến qua bên kia cầu. Họ ra dấu cho đồng đội mới tới di chuyển. Nhóm đầu tiên phóng nhanh qua cầu, đạn bắn sẻ bắt đầu nổ lách cách.
Thiếu tá Steele khom mình xuống chạy với nhóm còn lại.
Tiếng súng bắn sẻ rít lên. TQLC của Đại Đội Hotel chạy ngược lại. Họ củng cố vị trí tại khu cư xá và nhà máy điện gần đầu cầu.
Chủ nhà máy điện người Pháp cùng gia đình may mắn không ai hề hấn gì nay được Mỹ che chở.
Ngày thứ Hai, 12 tháng Hai, một ngày sau khi thiếu úy Hausrath bị giết, Đại Đội Fox vượt qua sông để càn quét những tên bắn sẻ. Carter, xạ thủ đại bác 3.5 inch được chỉ định đi với Trung Đội 2, đơn vị mũi nhọn, dùng thuyền máy bị trưng dụng để đổ bộ qua sông, xong quay ngược lại, quét sạch khu nhà giữa nơi họ đổ bộ và cây cầu. Họ tấn công từng nhà một rồi tới căn nhà kế, tìm thấy mấy xác Cộng Sản. Trung đội tiến được vào sân ga xe lửa.
Một trung sĩ nói với Carter bắn một phát vào một toa xe đang nằm trên đường sắt. Anh ta bắn hai phát, xong họ tiến vào lục soát thấy một toa xe có hai xác CSBV trong đó, một xác bị mất đầu. Carter tịch thu một cái khăn quàng cổ màu xanh đỏ trên xác một người chết. Họ tiếp tục tiến quân.
Trung đội 3, – bây giờ do James H. McCoy, một trung sĩ chỉ huy, – vượt qua cầu, và bắt đầu quét dọc theo con dường bờ sông, dùng lựu đạn khói để che khi tiến công. Hạ sĩ Allbritton tới gần một ngôi nhà, khi nhìn lui thì thấy thiếu tá Salvati và một trung sĩ của tiểu đoàn đang tản bộ trên đường – ngay giữa đường – giống như người ta đi bộ tập thể dục buổi sáng vậy. Viên trung sĩ nầy là một cựu chiến binh từng tham gia trận đánh trên đường phố ở Hán Thành, Nam Triều Tiên. Allbritton cảm thấy phục họ, nhưng anh cũng cảm thấy mệt tới tận xương vì thấy quá nhiều TQLC đã hy sinh.
Anh ta la lên với họ: “Đừng có làm bia cho tụi nó nữa. Tôi không muốn lính của tôi lôi xác mấy ông ra khỏi đây.” Nói xong, Allbritton nhảy tìm chỗ núp mất dạng nên hai người kia không thấy anh ta. Họ bèn tìm chỗ núp.
Súng nổ lác đác. Một tay bắn lén bắn một tràng vào Trung Đội 2. Carter tiến lên phía trước. Anh ta nạp đạn vào súng, viên đạn trợt qua ống phóng và rơi ngay tại chân anh ta. Trong suốt trận đánh, anh ta xử dụng đại bác 3.5 inch. Súng bắt đầu bị trục trặc.
Cách mấy khu nhà xa xa phía trước, có ngôi nhà họ nghi là địch từ đó đã bắn chết viên thiếu úy. Không có gì ngần ngại, họ làm ngay, gọi điện cho toán súng cối và toán đại bác không giật tác xạ: Ngôi nhà bị san bằng.
Đêm tới, các trung đội rút về bên nầy sông.
Carter ngủ qua đêm với Trung Đội 3. Anh ta quàng mấy tấm màn để che cơn gió bấc lạnh, nhìn mấy con chuột chạy quanh nhà lục lạo. Cây súng của anh để sát bên chân, đạn sẵn trong nòng, chờ động dụng.
Trước khi chia tay với tiểu đoàn, thiếu tá Salvati đi ra ngoài cùng thiếu tá Steele để tìm nơi đặt bộ chỉ huy cho ông đại tá và Tiểu Đoàn 2. Hai người bạn cũ đi bộ dọc theo đường Lê Lợi bên bờ sông Hương. Steele ngạc nhiên vì cảnh tượng thành phố bị tàn phá. Khi ông ta tới Phú Cam, các ngôi nhà cũng chưa hề hấn gì lắm, ngoại trừ những lỗ đạn lớn nhỏ rải rác đây đó. Tuy nhiên, địch kháng cự rất căng trên con đường Lê Lợi nầy. Đây là nơi suốt hai tuần lễ, tiểu đoàn phải chiến đấu gay go và đổ máu nhiều. Điều nầy làm Steele nhớ lại cuốn phim thời sự Thế Chiến thứ II về trận đánh Monte Cassino, những bức tường vở trơ trụi giữa đống gạch ngói.
Họ vào Câu Lạc Bộ Thể Thao, một câu lạc bộ cũ của Pháp, nhìn xuống sông Hương, có những thảm cỏ trãi dài tới bờ sông, những khoảnh đất rộng, sân quần vợt. Bề ngoài, trông còn tốt, nhưng khi đi từ cửa nầy qua cửa kia, họ thấy vết đạn loang lỗ trên tường mỗi phòng, vết đạn kéo từ phòng nầy qua phòng kia, bông băng dính máu vứt đầy chứng tỏ địch đã dùng chỗ nầy làm bệnh viện. Việt Cộng và quân CSBV không có trực thăng để di tản người bị thương nặng, không có bệnh viện thật sự, chỉ có một số y sĩ huấn luyện cấp tốc. Nơi nầy chứng kiến nhiều nỗi đau khổ.
Cuối cùng họ đi vào đây và đặt ban chỉ huy ở khu nhà Đại Đội Fox đã củng cố an ninh, tầng trệt thì dùng làm trạm cứu thương, tầng hai thì dành cho Cheatham và ban chỉ huy của ông ta. Tầng thứ ba thì để trống, phòng khi địch pháo trúng mái nhà như thường ngày địch đã pháo. Ban chỉ huy Đại Đội 2/ 5 cũng đóng ở đây.
Trung sĩ Dye đứng bên một cái hầm tìm thấy trong khu vực do Đại Đội 2/ 5 chiếm lại. Các TQLC khác đứng bên cạnh lầu bầu: “Chúa ơi!”.
Một mùi hôi thối khó chịu từ hầm bay lên, một mùi thúi đến lộn ruột bao trùm hết không khí chung quanh, lên tới bầu trời thấp đầy mây và mưa phùn. Dưới đó, bên dưới giày dép là hàng trăm xác người. Họ là người dân miền Nam Việt Nam, chết chồng lên nhau, nằm ngang nằm dọc, tưởng như níu lấy nhau khi người ta xã súng máy vào họ. Dye có nghe người ta đồn Cộng Sản tàn sát hàng loạt người dân Huế, nhưng anh ta không bao giờ nghĩ có thể có một cảnh tượng như thế nầy. Thân nhân và bạn bè của người chết đang tìm cách để tìm người thân trong đám xác chết hỗn độn bắt đầu thối rữa ấy. Họ lấy khăn tay để bịt mũi miệng lật từng xác chết tìm người thân.
Không bao giờ Dye có thể quên được hình ảnh ấy. Một năm sau, anh ta cũng nghĩ đến hình ảnh ấy khi vụ Mỹ Lai được đăng trên báo. Dye không thể tin được, khi báo chí làm ồn ào vụ Mỹ Lai nhưng lại chẳng bao giờ nói đến việc tàn sát của quân CSBV ở Huế. Cuối cùng, việc ấy cũng sẽ phai mờ theo thời gian cũng như những mối xúc cảm về một cuộc chiến tranh vậy.
Thứ Ba, 11 tháng Hai, trung tá Cheatham ra lệnh quét sạch các tay bắn lén, ngoan cố và những tên lính bị lạc đường phía bờ tây sông An Cựu, gởi Đại Đội Fox và Đại Đội Hotel qua sông. Christmas cùng đơn vị tiến xuống phía nam, qua ga xe lửa, trong khi Downs tiến lên phía bắc đẩy quân CSBV vào giữa hai gọng kềm.
Carter và trợ viên mới của anh, hạ sĩ Chek, người Mỹ gốc Trung Hoa quê ở Nữu Ước, đi trước trung đội. Họ dùng súng 3.5 inch bắn bay cửa của một ngôi nhà rồi một vài TQLC tiến vào trong. Nhà trống không. Carter bước vào trong “chớp” nhanh vật kỷ niệm của một cặp vợ chồng ở phía ngoài phòng của trẻ con. Họ tiếp tục đi tới, không có súng nổ, không có ai hết, kể cả người dân thường. Cuối cùng, họ thấy nghi. Cách mấy chục thước phía trước là căn nhà xây theo hình chữ L, cửa đóng; một dấu hiệu không lành. Allbritton đi phía trước tiểu đội, đưa tay ra dấu cho toán xạ thủ hỏa tiển vượt lên, yêu cầu bắn vài phát vào nhà. Một quả đạn vượt qua song sắt cửa sổ bay vào. Từ sân thượng của một tòa lầu hai tầng, Carter nhắm và nổ súng. Cái cửa sổ nhỏ bay mất, khói tuôn ra.
Một anh xạ thủ khoái chí bắn một tràng, Carter lại nhắm, nhưng Chek dụng vào chốt súng nên súng không nổ, bỗng Carter nghe Allbritton la to: “Ngừng bắn.”
Anh chú ý thấy người từ trong nhà chạy vòng ra từ một cánh cửa bị khuất. Trước tiên là một ông già lụm cụm, đầu hói, và râu dài tới ngực. Mặt và tay ông ta đầy máu. Hai đứa bé nắm lấy áo ông già và khóc. Bắt đầu có thêm nhiều người từ trong nhà chạy ra, người nầy dìu người kia như bị thương, hoặc là chết. Một người nói với TQLC rằng họ là dân thường, CSBV đã giữ họ để làm con tin. Tình cờ họ đã được TQLC giải thoát.
Đại úy Christmas để Thomas lại làm hậu bị cho đại đội rồi đưa anh hiệu thính viên đi theo trung đội mũi nhọn cho Đại Đội Hotel. Anh ta nghĩ một cách mơ hồ rằng hôm nay là ngày 13, và trầm ngâm suy nghĩ tới con số không may.
Họ tiến qua khu ga xe lửa, rồi tiến về phía tây, ngoại ô Huế, vượt qua một doanh trại của quân đội VNCH (ở Nam Giao ngd), qua một khu rừng gỗ, và những ngọn đồi thoai thoải, một khu nghĩa địa cổ và mấy ngôi chùa nhỏ. TQLC chú ý tới mấy ngôi mộ mới đắp, những huyệt mới đào còn cạn. Christmas cùng mấy TQLC tiến lên quan sát.
Trong phút chốc súng nổ dữ dội. Họ nghe tiếng súng cối bắn đi. Christmas và ban chỉ huy của anh ta kẹt giữa một khoảng đất trống khi đạn bắn tập trung vào khu vực, mảnh đạn bay lung tung. Ai cũng muốn lao vào một nơi nào đó để tránh đạn. Họ chen chúc nhau trong một chỗ đất hõm, trong khi đạn vẫn nổ. Christmas quay nhìn lui thấy bóng của một lính CSBV núp sau một cái đền hơi xa. Anh nầy bắn một quả B-40 trong khi đó Christmas chỉ kịp nghĩ: Mình đâu phải là chiếc xe tăng. Hơi nóng mảnh đạn sắc như dao cạo đâm sâu vào chân phải anh ta. Anh ta liền nhảy vào một cái huyệt cạn mới đào bên cạnh, nằm co lại, một cái xác Việt Cọng nằm bên cạnh. Đạn súng cối tiếp tục rơi xuống, anh ta cố ép mình thật sâu trong huyệt, xác chết im lặng nằm bên cạnh anh.
Carter và mấy người lính TQLC vượt mấy hàng cây thấp và tới một ngôi chùa nhỏ ở giữa một khu vườn. Họ đứng nhìn một lúc. Chùa thật đẹp, mái cong lợp ngói. Nhang trong bình chưa đốt. Carter thấy tượng Phật ngồi trên bàn thờ, anh ta rất muốn lấy tượng Phật đó để làm kỷ niệm. Tuy nhiên, anh ta biết phải dấu ở đâu đó trong đồ dạc suốt 9 tháng trước khi về nước. Vã lại, anh ta nghĩ nếu “chôm” pho tượng ấy, Chúa sẽ không cho anh là người làm điều phải.
Họ bắt đầu rời ngôi chùa và đi bộ lên một ngọn đồi nhỏ có rào kẽm gai. Carter và Shek vác súng tìm đường bước qua, người mang máy truyền tin và mấy TQLC đang đi phía trước. Bất thần, họ nghe tiếng bắn đi của súng cối, đạn nổ phía trước cách khoảng hơn trăm mét. Họ nhìn quanh, tự hỏi: Đại Đội Hotel đang ở đâu nhỉ?
Rồi đạn nổ gần hơn. Họ quay ngược lui chân đồi. Carter thấy khói đen và tiếng nổ trên đầu hàng cây, cách xa khoảng 30 thước. Có cái gì đụng mạnh vào chân anh ta, giống như ai lấy cái chày khúc côn cầu đánh mạnh vào. Anh té về phía trước, rơi vào giây kẽm gai, đũng quần vướng vào kẽm gai không gỡ ra được. Anh ta thận trọng tìm cách chui ra. Đạn súng cối lại nổ nhiều thêm. Cố thoát chết, Carter gần như muốn điên khi xé rách quần ra rồi lăn tròn xuống chân đồi.
Anh ta chạy ngược lại ngôi chùa và nhảy vào trong. Có mấy TQLC đang núp trong đó, có một người khác nữa bị mảnh đạn ở đầu gối và một anh cứu thương Hải Quân. Người y tá xem vết thương của Carter, trông có vẽ hơi nặng. Mảnh đạn đâm sâu và có thể đụng xương. Máu còn chảy. Y tá lấy băng băng lại cho anh. Những người bị thương được đưa về sông An Cựu. Một chiếc xe Jeep đưa họ về ban chỉ huy tiểu đoàn. Tuyên úy tiểu đoàn, to con như một cầu thủ bầu dục, chạy tới. Ông ta ôm một người bị thương ốm như cây sậy đem vào trong. Carter cẩn thận tìm cách xuống khỏi xe và đi cà nhắc vào.
Khi bắt đầu bị pháo kích thì Thomas còn ở phía sau của trung đội. Có tin lộn xộn gọi trong máy nên Thomas và vài TQLC chạy lên phía trước, chỗ có tiếng súng. Họ thấy mấy TQLC thối lui phía đường lộ. Đó là những người chỉ huy trung đội: Thiếu úy Myers, thiếu úy Lambert, và mấy trung sĩ trong ban tham mưu. Những người nầy bị thương và được băng một cách vội vàng. Họ nói là bị thương vì đạn súng cối và chỉ hướng trung đội cho họ. Thomas thấy Chritmas nằm dựa lưng vào bức tường một căn nhà, y tá đang ở bên cạnh và chân Christmas bị băng kín. Christmas đi cà nhắc về phía họ.
Đạn súng cối lại nổ, Thomas nằm xuống bên cạnh Christmas và y tá. Đạn lại nổ tiếp, Thomas nằm chồm lên người Christmas để che đạn cho cấp chỉ huy của anh. Họ gọi máy và nghe có tiếng người gọi một chiếc xe bị trưng dụng. Họ leo lên xe và rú ga chạy. Đại đội có 23 người bị thương. Cũng may, chẳng có ai chết. Thomas ngồi bên cạnh Christmas trên sàn xe, nói chuyện với nhau để cố quên đau trong khi xe chạy.
Đằng sau họ, TQLC đang phản pháo.
Tới trưa họ về tới căn nhà đặt ban chỉ huy. Christmas nằm trên cáng đặt sau xe Jeep trong khi y tá chăm sóc vết thương cho anh ta. Cheatham, Steele và những người còn lại quây quần chung quanh. Christmas lấy khuỷu tay chống xuống giường, cố gượng dậy, hút một điếu xi-gà bự và nói chuyện, làm thế nào anh ta có thể trở lại đơn vị sớm, sau khi các bác sĩ băng bó cho anh ta xong.
Tuồng như anh ta không quan tâm lắm tới vết thương nơi chân khá nặng, làm cho anh ta đau đớn lắm.
Sau khi những người bị thương được di tản hết về MACV, Cheatham gọi điện cho trung úy William L. Harvey, sĩ quan phụ tá hành quân tiểu đoàn. Ông ta ra lệnh chỉ có 3 tiếng: “Lo hành trang.” Harvey là đại đội trưởng mới của Đại đội Hotel. Quê ở vùng nông trại tiểu bang Vermont, 24 tuổi, là một sĩ quan hành quân nhiều kinh nghiệm, từng giữ nhiệm vụ trung đội trưởng một năm ở Đại đội Golf, trước khi kéo dài thời hạn phục vụ và được chỉ định phục vụ tại ban chỉ huy Đại đội 2/5. Ở Huế, tiếng gọi gần nhứt để ông ra trận không phải là do CSBV tấn công mà từ một sĩ quan TQLC khác. Một hay hai ngày trước, ông đang tắm trong nhà tắm dành cho sĩ quan thì trong một phòng khác, đại úy Fine, tò mò với một súng phóng B-40 tịch thu được, trái đạn bỗng nhiên nổ. Trái đạn làm thủng bức tường và nổ trên đầu Harvey. Anh ta giật mình tưởng chết.
Đại úy Pyle của tiểu đoàn đảm nhận nhiệm vụ của Harvey. Harvey gom hết hành trang rồi ra đi, tìm đại đội mới của anh ta. Cũng phải mất một tiếng đồng hồ. Anh ta làm việc với trung sĩ Miller, người tạm nhận chức vụ. Ngoài ra còn có Thomas, người không bị thương trong trận pháo kích. Harvey nhìn vào đám lính của anh, họ ngồi lộn xộn chung quanh, hết sức chán nãn, ủ rũ. Họ bị mất tinh thần. Cheatham kéo họ về một ngôi trường đạo gần đó (Pellerin, Ngd) để tái tổ chức, thực ra là để họ nghỉ ngơi một chút.
Sau đó, khi gom được tin tình báo, người ta mới biết chỗ những ngôi mộ cạn là nằm ngay trên đường rút lui của bộ chỉ huy quân CSBV. Giống như những người lính rành nghề, họ đặt súng ngay trên vị trí sẵn có, và Đại Đội Hotel tình cờ hành quân ngay trên cửa hậu của họ.
Carter được đưa bằng xe tới bãi đáp trực thăng cùng với những người bị thương khác. Hai tuần trước, khi anh ta tới đây, các trực thăng thường bị địch xạ kích. Tuy nhiên, tới 13 tháng Hai, trực thăng muốn tới lui lúc nào cũng được. Ở đây có phóng viên báo chí, các tay nhiếp ảnh, người tỵ nạn tập trung từng đám chung quanh chờ được về nhà, hoặc nếu được ưu tiên sẽ cho di tản.
Carter ngồi ở đây, chăm sóc cái chân của anh bị thương và nhìn chung quanh. Có một đống xác chết của quân CSBV nằm ở kia. Có chiếc xe cần cẩu ở đó nữa. Người tài xế hạ cái mỏ cẩu xuống, kẹp ba bốn xác chết. Mỏ cần cẩu cất lên, đủ cao cho xe chạy được, rồi thả mấy cái xác đó xuống một cái hố. Mấy cái xác rớt xuống, chồng lên nhau. Những người Việt dân sự đứng nhìn há miệng cười, la to hoan hô. Carter thấy có vẽ vui.
Phía bên kia bãi, anh ta thấy những xác chết thuộc phe anh ta. Xác chết TQLC xếp hàng như đống gỗ, những cánh tay đen hay trắng giang ra, tất cả đều còn mang giày trận nên mỗi xác trông nặng đến cả hàng trăm pound, xếp thành đống trên thùng xe tải. Carter nghĩ chắc chưa gấp để phải đưa họ đi bằng trực thăng.
Một lúc sau, một chiếc trực thăng đến và thương binh được chuyển đi Phú Bài. Người phi công lượn nghiêng chiếc máy bay để tránh địch xạ kích khiến các thương binh níu lấy nhau. Đại úy Christmas níu lấy Carter để giữ cho anh ta khỏi rơi ra ngoài.
Sau cuộc càn quét ngày 13 tháng Hai, Đại Đội 2/5 TQLC bắt đầu ít gặp địch thường xuyên như trước. Có những cuộc chạm súng gay go mỗi ngày nhưng hoàn toàn vì mục đích thực tiễn. Với họ, đó là phần cuối của một trận đánh dữ dội trên đường phố.
Những cuộc tuần tiểu bắt đầu vượt qua bên sông, những hàng cây và làng mạc ngoài rìa thành phố. Nhưng cứ đêm tới, các tay bắn lén tiếp tục quấy rối căn nhà ban chỉ huy đóng. Cuối cùng, TQLC đóng tại căn nhà nơi trước đó quân CSBV đã đóng – căn nhà nhỏ màu hồng – Cheatham cho gài mìn. Đêm đó, qua ống kính viễn vọng, họ thấy vài lính CSBV lẽn vào. Bấm nổ ngòi điện, toàn bộ căn nhà sụp đổ tan tành.
Trong tình trạng bình thường, sau khi trận đánh chấm dứt, người ta làm đề nghị tưởng thưởng cho những người chiến đấu gan dạ. Tuy nhiên ở Huế, vì cuộc chiến đấu hết sức căng thẳng và số thương vong quá cao, một đại úy và nhiều binh lính được đề nghị phải gởi danh sách về bộ tư lệnh sư đoàn. Họ thiết lập một văn phòng ngay ban chỉ huy tiểu đoàn và thực hiện bản đề nghị ngay giữa mặt trận. Đó là tình trạng hoàn toàn bất thường. Có chuyện kể về một trái đạn súng cối không nổ rơi phía ngoài cửa sổ của viên đại úy. Ông ta đứng xem một TQLC tháo ngòi nổ viên đạn ấy, và tức thời viết ngay câu tuyên dương Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao đồng. Thiếu tá Steele nghe một câu chuyện khác nói về một anh cứu thương Hải quân thuộc đại đội Fox được đề nghị thưởng tới mấy huy chương. Theo như câu chuyện, người nầy vừa mới tới Việt Nam, trải qua hai ngày tại lớp hướng dẫn rồi gởi ra đơn vị. Trong một thời gian ngắn, anh ta bị thương nhẹ trong khi cứu cấp cho một TQLC và được thưởng một Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao bạc. Ngày hôm sau, anh ta bị thương nặng sau một anh TQLC khác, anh ta lại được đề nghị tưởng thưởng và được di tản. Trong khi nằm trên cáng đặt tại bãi đáp trực thăng, anh ta lại bị một mảnh đạn súng cối nữa. Thành ra, anh ta được cho về nước cùng với một huy chương ngôi sao bạc, một huy chương ngôi sao đồng và ba Chiến thương Bội tinh chỉ sau một tuần chiến đấu.
Một hoặc hai ngày sau khi nắm Đại Đội Hotel, trung úy Harvey có một trung đội trưởng mới, thay thế cho tất cả các thiếu úy và trung sĩ bị thương vào ngày 13 tháng Hai. Anh nầy mới được thăng thiếu úy do sư đoàn gởi tới. Anh ta không đọc bản đồ được. Anh ta gọi điện cho ban chỉ huy báo cáo rằng anh ta đang ở trong một căn nhà như thế như thế và Harvey phải kéo hiệu thính viên theo để đi tìm họ. Họ bắt đầu đi vào một con đường hẽm, Harvey nhìn lên thì Chúa ơi! Họ đang đứng chân kề chân với hai lính CSBV. Cả bốn người đứng trân ở đó trong một giây vì sửng sốt, nhìn vào nhau. Harvey tưởng như dài lắm rồi bỏ chạy về hướng khác. Harvey thấy một trong hai người ấy kéo cây AK-47 đang đong đưa lên. Anh ta nằm sát tường và một tràng đạn rớt bên cạnh, mảnh xi-măng văng trúng mũi và tai anh ta. Hai lính CSBV chạy mất. Anh ta nhìn lại hiệu thính viên, anh nầy run lên vì sợ, nôn ọe xuống đường.
Kể từ ngày 10 tháng Hai, khi khu vực từ MACV tới Phú Cam hầu như hoàn toàn nằm trong tay Đại đội 2/5 kiểm soát, trung tá Gravel ra lệnh quay hướng hành quân, trở lại quốc lộ 1 và bắt đầu mở ra hướng đông, từ MACV tới sân Vận Động Huế, và những sông đào chạy theo rìa nam Huế. Cho tới lúc nầy, ông ta cũng chỉ có hai đại đội: Đại Đội Alpha của trung úy Smith và Đại Đội Bravo của đại úy Robert A. Black Jr. Việc càn quét phía đông còn nặng hơn trước. Không hoàn toàn căng thẳng như tuần đầu ở Huế, nhưng vẫn có nhiều tay bắn sẻ, nhiều tay ngoan cố, tụt hậu làm cho mọi người phải luôn luôn đề phòng, sợ hãi, và mệt mỏi, lục soát từ nhà nầy qua nhà khác, từ khu nầy qua khu nọ.
Đang trong trận đánh, Gravel đi MACV để tham dự buổi họp tham mưu của đại tá Hughes. Ông ta vào bộ chỉ huy, và lạ chưa, một người ngồi bên một cái lều vải nhỏ trong hành lang, mặc áo giáp có cái bình bằng sắt là Walter Cronkite.
Ông ta đi ngang qua người nầy, vào phòng tham mưu, nói đùa: Trông như ông mới kiếm được một mạng nào ngoài đó vậy?
Huhges nói: “Tất cả cho anh đó.”
Ông ta nói kể từ khi Gravel là vị chỉ huy TQLC đầu tiên đến Huế, ông ta có thể giải thích trận đánh cho mọi người biết. Huhges giới thiệu Gravel với Cronkite cùng vài TQLC đi theo và đám quay phim, truyền thanh, nhiếp ảnh, báo chí. Gravel, có cảm tình ngay với Cronkite, biểu ông ta gọi ngay cho vợ ông khi về tới Nữu Ước và nói rằng ông ta vẫn mạnh khỏe.
Tại ban Chỉ huy tiểu đoàn, Gravel muốn Cronkite gặp các sĩ quan của ông ta. Đại úy Jim Gallagher, sĩ quan hành quân mới, Gallagher đã chỉ huy một cách xuất sắc Đại Đội 1/1 và đã tới phiên về nước hôm 1 tháng Hai, nhưng khi nghe tin chiến trận ở Huế và cái chết của Walt Murphy, anh ta vội vã quay lại mặt trận. Ngày hôm trước Cronkite đến, Gravel và Gallagher đã thức suốt đêm để vạch kế hoạch và tìm hiểu coi ai là người giỏi nhất của họ để họ gặp. Gallagher đã chọn Walter Cronkite.
Khi Gravel và Cronkite về tới ban chỉ huy, Gallagher đang khom mình trên bản đồ. Gravel nói: Xin lỗi, Jim, đây là người anh muốn gặp đây nầy. Walter Cronkite, còn đây là Jim Gallagher, một trong những sĩ quan tác chiến giỏi nhất của TQLC, anh có thể hy vọng được.
Gallagher nói lắp bắp: Vui lòng gặp anh.
Về sau, Gravel nhận ra trong cuộc phỏng vấn bên đường của phóng viên CBS, trong bối cảnh có lồng tiếng súng. Gravel nghĩ quả thật là đồ chết tiệt, chỉ là trò thương mại.
Trung uý Smith và Đại Đội Alpha càn quét vùng sân vận động Huế, đụng một trận hết sức tệ hại khi tiến về phía đông. Họ tiến xuống một con đường đất, xe tăng đi đầu, xe phun lửa đi sau, bộ binh hai bên. Phía trước là mặt tiền của một doanh trại VNCH bỏ trống.
Hạ sĩ Neas cùng với toán súng máy di chuyển bên phải các chiến xa. Anh ta thấy phía trước có một lỗ tường thủng nơi doanh trại quân đội. Từ lỗ đó, bất thần một trái B-40 bay tới nổ bùm. Chiếc xe tăng bị đạn lắc lư, mảnh đạn bay ra. Súng AK-47 bắt đầu nổ, cày đất lên. Một trung sĩ, biệt danh là Chunky, từng bị thương hai lần, bây giờ bị một mảnh đạn ở chân, té xuống đường. Vài TQLC bắt đầu bắn trả, trong khi các TQLC khác thì kéo Chunky qua một bên, và các TQLC khác đưa người bị thương lên sau xe tăng, người lái chiếc xe tăng đi trước bị đạn được lôi ra khỏi chiếc xe. Chiếc xe tăng chở người bị thương dọt đi. Trung sĩ Burghardt nhìn theo chiếc xe tăng khi đang quày lui – chạy qua chỗ một người y tá bị thương nằm gần ngã tư, cán gãy tay anh nầy. Hai người lính TQLC kéo anh ta vào dưới một gốc cây. Anh ta nằm ở đó, khóc vì sợ, súng nổ thêm dữ.
Neas nhìn lui chiếc xe tăng đi đầu, anh ta thấy người chỉ huy chiến xa, một trung sĩ da đen, quì đằng sau chiếc xe đang cháy. Anh ta đang khóc, la to lên rằng anh ta muốn có một chiếc tăng khác để đi tìm quân CSBV đã bắn cháy chiếc tăng M-48 của anh ta.
Neas ra lệnh cho một trong mấy người thuộc toán hỏa lực của anh, rồi họ bò thật thấp trên mặt đường, nhảy qua một cái cửa sổ. Họ đặt cây đại liên M-60 lên thành cửa, nhắm vào chỗ quân CSBV ở bức tường đối diện. Neas núp ở cửa sổ bên cạnh. Có một căn nhà nhỏ đối diện với anh ta, ngay sau bức tường trại lính. Anh ta biết chắc chút nữa, CSBV sẽ từ trong căn nhà ấy rút ra. Đặt sẵn cây M-16 lên vai, kê băng đạn lên ngưỡng cửa sổ, nhắm ngay vào cửa sau của tòa nhà. Toán súng cối ở phía sau họ bắt đầu nã hơi cay, trong phút chốc, ba CSBV phóng ra khỏi bức tường và chạy vào căn nhà nhỏ. Neas quay đi một giây, rồi lại nhìn lui chỗ cũ để canh chừng CSBV thoát ra cửa hậu. Có tiếng hô to của TQLC: Bắn. Neas xiết cò một lần, một mạng ngã lăn ra đất. Anh nầy bắt đầu bò đi. Neas đứng thẳng lên, không tin anh ta còn sống. Như mê mẩn, anh ta đổ hết một băng đạn vào người lính CSBV.
Cuộc chạm súng tiếp tục. TQLC nã đạn liên tiếp vào trại lính, hỏa lực phản công của địch càng lúc càng yếu dần. Toán đại liên M-60 của Neas xài hết một tràng đạn khi anh ta thấy bóng vài người bận đồ xanh, đội nón sắt chạy băng qua sân. Anh ta không thấy mặt họ nhưng đoán chừng khoảng một tiểu đội và la to: “Ngưng bắn.”
Xạ thủ đại liên M-60 ngưng bóp cò. Mấy bóng người mặc đồ xanh nầy chạy vào căn nhà chính. Nhưng không có tiếng súng M-16 trong đó. Neas chưởi: “Mẹ!” Anh ta tự rủa thầm. Một vài lính CSBV mặc đồ lính Mỹ. Thật là dễ bắn mà để cho chúng chạy mất.
Súng cối bắt đầu nã vào trại. Tiếng súng địch càng lúc càng yếu dần.
TQLC đứng lên rồi chạy băng qua đường, đổ dồn vào doanh trại. Chẳng phải nổ súng gì nhiều mà cũng chẳng làm gì khác là đếm xác địch. Trung sĩ Burghardt đi vào căn nhà nhỏ nơi Neas đã bắn ngã vài CSBV. Burghardt kêu Neas và chỉ cho anh ta thấy. Một anh lính CSBV bò ra tới ngưỡng cửa, chết cứng, tay còn giữ lấy bụng, ruột lòi ra vì bị thương. Có hai cây súng nằm bên cạnh anh ta. Burghardt lấy một cây AK máng lên vai còn Neas thì lấy kỷ niệm một cây tiểu liên Nga có băng đạn tròn. Họ quay trở lui đường phố, khi đó anh trinh sát người Việt của đại đội thấy cây súng tiểu liên thì nhảy tung tăng, cười và la lên: Nhứt rồi! Theo thông dịch viên thì những người mang loại súng như thế nầy phải là sĩ quan.
Trong vòng 1 hay 2 ngày, Đại đội 1/1 đã bình định xong khu vực dọc theo sông đào. Bây giờ chỉ còn tiêu diệt những tay ngoan cố hoặc chưa biết là đã có lệnh rút.
Trung úy Allen W. Courtney, Jr. Trung đội trưởng Trung đội 3 thuộc Đại Đội Alpha, tóc vàng hoe, quê ở Texas, nguyên là binh nhì, toàn cả đại đội ai cũng kính trọng. Trong những trận đánh ở Cồn Thiên hồi tháng Chạp, anh đã được gắn Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao bạc. Giống như tất cả trung úy của Đại Đội Alpha, anh ta bị kẹt ở Đà-Nẵng vì một khóa học khi trận đánh ở Huế bắt đầu. Anh ta cũng không xin được về đơn vị cho mãi đến ngày 11 tháng Hai. Suốt hai ngày, anh ta cùng trung đội hành quân dọc theo sông đào. Một trong các tiểu đội vượt qua bên kia cầu chiếm một ngôi nhà để củng cố an ninh. Họ vào trong nhà thì một quả B-40 nổ trúng ngưỡng cửa sổ. Một vài TQLC bị thương trong khi CSBV bắn dồn thêm. Courtney đứng dậy, nắm lấy cây M-60 của Neas bắt đầu quạt lại hướng địch. Một viên đạn trúng vào bắp chân anh ta, nhưng anh ta vẫn tiếp tục nổ súng cho đến khi tiểu đội rút về bên kia cầu. Y tá băng quanh bắp chân cho anh ta, nhưng anh ta cũng chẳng thèm lưu tâm cho đến khi trung úy Smith thấy và biểu anh ta rút lui phía sau. Vết thương nặng, nhưng Courtney không chịu đi, anh ta muốn ở lại với trung đội. Cuối cùng, trung tá Gravel ra lệnh anh ta di tản đi bệnh viện ở Phú Bài, theo cái cách mà anh nghĩ như người dân Texas thường nói: “Ra khỏi thành phố trước khi trời tối.” Gravel cũng nghe một câu chuyện như thế nầy: Một anh TQLC trẻ đang nằm trên cáng đặt tại MACV chờ máy bay trực thăng tải thương. Một anh phóng viên báo chí hỏi: “Anh bị thương bao nhiêu lần rồi?” Anh lính trẻ nhìn lên và hỏi: “Hôm nay đấy hả?”
Đại Đội Alpha tuần phòng khu ngoại ô thành phố, càn quét địch. Trung sĩ Burghardt được lệnh dẫn theo 3 TQLC kiểm soát hàng cây trước mặt họ. Họ đi băng qua hàng cây đó, ló mặt ra, và có một lính CSBV đứng cách mấy chục thước phía trước, đứng như vậy mà kinh ngạc nhìn mấy TQLC. Xong anh ta quỳ xuống bắn một quả B-40. Mọi người tìm nơi ẩn núp. Quả đạn trúng một thân cây, nổ, không ai bị thương. Burghardt chạy lên trước, bắn bằng cây súng Colt-45. Anh lính CSBV bỏ chạy. Burghardt bỏ cây súng Colt xuống, cầm cây M-16 lên, bắn một tràng, người kia té xuống, chết.
Chủ nhật, ngày 18 tháng Hai, hạ sĩ Soukup và tiểu đội của anh ta cùng TQLC hành quân với vài TQLC thuộc Đại Đội 1/ 1, chiếm một căn nhà để nghỉ qua đêm. Họ để trang bị xuống sát vách tường tính làm chỗ nghỉ ngơi thì bỗng có tiếng đạn B-40 bay. Viên đạn rít qua cửa sổ đụng vào trần nhà nổ. Hơi nóng và mảnh xi măng bay xuống, đụng vào áo giáp và mũ sắt. Mảnh đạn đâm vào bắp vế, tay và đầu Soukup. Hai TQLC khác cũng bị thương.

Sau tiếng nổ một giây, mọi người la lên. Soukup và một TQLC khác bắn qua cửa sổ, một TQLC khác thì quăng lựu đạn. Mấy giây sau, có người la to: “Tao bắn trúng nó, tao bắn trúng nó.” Soukup và những người còn lại nhẹ nhàng thoát ra ngoài. Anh lính CSBV nằm trên cỏ, bị thương vì mảnh đạn, cây súng B-40 nạp đạn sẵn nằm lăn bên cạnh. Anh ta còn trẻ, mập mạp, mặc quần xà lỏn. TQLC đứng chung quanh, thấy anh ta thì nhìn họ mà không biết anh ta mong ước điều gì.
Thiếu tá Steele đang ở tại ban chỉ huy Đại Đội 2/5 khi một toán quân CSBV vượt qua sông Hương. Họ từ bên Thành Nội đi qua, thực hiện cuộc rút chạy như điên khùng để giữ mạng sống. Mọi người ở gần bắn như điên vào họ. Trừ một người. Đứng bên cạnh Steele là một ông trung sĩ già của MACV. Ông ta la lên to: “Tại sao không để cho họ đi đi, mình có thể rút lẹ ra khỏi đây.”
TQLC chẳng ai để ý đến lời ông, quân CSBV hiện ở trong Thành Nội tìm mọi cách để thoát ra ngoài.


Ghi chú (của Ngd):
(1)- Sau khi đánh đuổi quân Cọng sản ra khỏi thành phố Huế, tình hình vẫn căng thẳng, chiến sự còn tiếp tục ở ngoại ô, tình trạng cướp bóc diễn ra khá phổ biến. Những vụ điển hình như cửa hàng bán TV, Radio “Việt Tuyến” trên đường Trần Hưng Đạo, gần cửa Thượng Tứ, bị kẻ cướp dùng xe GMC tới chở sạch. Việc cướp dùng xe GMC chở hàng cho thấy “bọn” cướp thuộc hạng người nào. Đại úy Lê B. Ng. đại đội trưởng CSDC Thừa Thiên- Huế vào cướp hôi ở Ty Ngân Khố Huế. Chưa thỏa lòng tham, y còn cướp hàng tại tiệm “Bát Tiên” trên đường Phan Bội Châu, Huế. Xui cho y, tiệm nầy là bà con với tướng Nguyễn Ngọc Loan, cục trưởng cục ANQĐ kiêm Tổng giám đốc CSQG, nên ngay lúc đó, tướng Loan đến Huế, y bị cách chức và trả về BDQ là đơn vị cũ của y.
Ngoài ra, tại bùng binh đầu cầu Trường Tiền, trước trường Đại Học Khoa Học (Morin cũ) có dựng một pháp trường cát. Có dư luận nói là để xử tử ai bị bắt về tội cướp, lại có dư luận nói là để xử quận Cán (quận trưởng Cảnh Sát). Khi Cộng Sản chiếm Huế, y ở Gia Hội ngày ngày vác loa đi hô hào dân chúng nổi dậy “chống Mỹ cứu nước”. Khi Cộng Sản rút lui, y ở lại và bị dân chúng tố giác nên bị chính quyền Nam VN bắt giữ, chờ đem xử tử. Có dư luận nói là nhờ gia đình y chạy chọt với một bà tướng lớn ở Đà-Nẵng nên y được tha. Cuối cùng, pháp trường cát dựng lên chỉ để dọa thiên hạ chứ chẳng bắn giết người nào cả.
(2)- Có lẽ tác giả chưa nắm rõ sự kiện nầy. Trên sông Hương lúc bấy giờ chỉ có hai cây cầu (Cầu Trường Tiền và cầu xe lửa. Cầu sông Hương – ngang bệnh viện Trung ương Huế sau nầy mới hoàn thành -). Cầu xe lửa còn nguyên, cầu Trường Tiền bị đặc công Cọng Sản phá sập đêm mồng 5 tết Mậu Thân, ngày 4 tháng Hai/ 1968)

No comments :

Post a Comment