Tuesday, April 12, 2016

KIẾP LƯU VONG



Cao-Đắc TuấnTóm lược: - Nguyễn Viết Dũng, một thanh niên sinh sống tại Việt Nam, viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong," mô tả nỗi đau xót của tuổi trẻ trong cuộc sống đọa đầy dưới sự cai trị cộng sản. Bài thơ biểu lộ nỗi niềm đau thương của một thanh niên sống trên quê cha đất mẹ nhưng tưởng như đang sống kiếp lưu vong nơi xứ lạ quê người, vì đất nước anh đang bị cai trị bởi cộng sản. Bài thơ gửi các câu hỏi đến toàn thể dân Việt Nam là lời kêu gọi nhắc nhở toàn dân đến lịch sử oai hùng và niềm thiết tha giành lại tự do đã bị cộng sản cướp đi. "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ chính trị tuyệt diệu, dùng thể loại thơ bốn câu vần liên kết, thích hợp cho mục tiêu kêu gọi đấu tranh. Những ẩn dụ độc đáo diễn tả ý tưởng chống đối và kêu gọi một cách tinh tế. Qua các câu hỏi tu từ, bài thơ có tác dụng thuyết phục rất hiệu quả trên giới trẻ tại Việt Nam hiện nay, và do đó cần được truyền bá rộng rãi. 

Vào ngày 30 tháng 4 năm 2014, một lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), bay phất phới trên nóc nhà một căn nhà tại Nghệ An. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, lá cờ chính nghĩa của VNCH tung bay công khai trên đất nước Việt Nam sau ngày cộng sản xâm lăng và chiếm đóng quốc gia VNCH vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sự kiện lá cờ VNCH bay trên nước Việt Nam vào ngày quốc hận 30 tháng 4 cho thấy dân tộc VNCH vẫn còn sống hùng mạnh và nước VNCH chỉ đang bị chiếm đóng bởi nhóm cộng sản (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2015a). Lá cờ VNCH đó do Nguyễn Viết Dũng, biệt danh "Dũng Phi Hổ," một thanh niên 28 tuổi lúc bấy giờ, tự làm và treo trên nóc nhà anh. 

Tuy sinh trưởng dưới chế độ cộng sản và hấp thụ lối giáo dục tẩy não và nhồi sọ của cộng sản, Nguyễn Viết Dũng không trở thành nạn nhân của chính sách cộng sản đầu độc tư tưởng đã hãm hại hàng triệu thanh thiếu niên ưu tú Việt. Dũng tự nghiên cứu và tìm tòi về đảng cộng sản Việt Nam, chiến tranh Việt Nam, và chính thể VNCH. Sau nhiều năm tìm tòi và học hỏi, Dũng phát huy nhiều ý tưởng về cuộc đấu tranh cho tự do.  
Một trong những ý tưởng của Dũng trong cuộc đấu tranh cho tự do được ghi nhận trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" do Dũng viết. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" nói lên tâm trạng bi thương của Dũng trước cảnh đất nước Việt Nam bị cộng sản cai trị và niềm mong ước toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên giành lại tự do và phục hồi lại chính nghĩa quốc gia. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" được nhạc sĩ Dzuy Lynh phổ nhạc với cùng nhan đề. Bài thơ được chính Nguyễn Viết Dũng đọc và bài hát được nhạc sĩ Dzuy Lynh hát trong một video clip đăng trên You Tube. 
Trong bài này, tôi sẽ chỉ thảo luận về bài thơ "Kiếp Lưu Vong," và sẽ không thảo luận đến ca khúc cùng nhan đề do nhạc sĩ Dzuy Lynh viết. Lý do là tôi muốn chú trọng vào ý nghĩa của bài thơ và tác giả Nguyễn Viết Dũng. Ca khúc do nhạc sĩ Dzuy Lynh viết là bài hát rất hay và gây cảm xúc mạnh. Độc giả hãy lắng nghe và thưởng thức bài thơ và ca khúc tại đoạn video trên

Tiểu sử của Nguyễn Viết Dũng như sau:
Nguyễn Viết Dũng sinh ngày 19 tháng 6 năm 1986, là con trai duy nhất trong gia đình có 4 anh em, tại tỉnh Nghệ An. Nên ghi nhận ngày sinh 19 tháng 6 của Nguyễn Viết Dũng cũng là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Dũng sinh ra và lớn lên trong gia đình mà cha mẹ đều là nông dân, sinh sống bằng nghề cấy lúa. Ngay từ nhỏ Dũng đã học giỏi toàn diện, đặc biệt rất giỏi về môn khoa học tự nhiên. 
Với thành tích học tập xuất sắc, năm học lớp 12 (2004) Dũng được chọn tham dự cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia," một cuộc thi kiến thức trên truyền hình dành cho học sinh trung học phổ thông do VTV3 – Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức (Wikipedia 2015e). Kết cuộc Dũng lọt đến kỳ thi Quý và đoạt giải ba. Trong kỳ thi đại học năm 2004, Dũng đậu Đại Học Bách Khoa Hà Nội với số điểm 29/30, đứng đầu tỉnh Nghệ An lúc đó. Sau một thời gian theo học đại học, Dũng tìm hiểu về lịch sử Việt Nam và những sự thật về đảng cộng sản Việt Nam, cũng như về cuộc chiến tranh Việt Nam, và chính thể VNCH của miền Nam Việt Nam. Sau đó, Dũng dấn thân vào con đường đấu tranh cho tự do và chính nghĩa quốc gia.
Ngày 30 tháng 4, 2014 lá cờ VNCH (cờ vàng ba sọc đỏ) lần đầu tiên được treo trên nóc nhà Dũng tại Nghệ An. Ngay sau đó Dũng bị 5 công an đến bắt về đồn. Từ lúc đó trở đi Dũng và gia đình thường xuyên bị sách nhiễu, nhưng Dũng vẫn kiên trì với lý tưởng của mình. 
Ngày 12 tháng 4, 2015, Nguyễn Viết Dũng cùng 4 bạn trẻ tham gia tuần hành bảo vệ cây xanh cùng người dân Hà Nội. Đến 11 giờ cùng ngày, khi buổi tuần hành kết thúc, nhóm của Dũng tách đoàn đi về thì bất ngờ bị công an quận Hoàn Kiếm bắt giữ khẩn cấp với lý do vi phạm vào Điều 245 Luật Hình Sự (CTV 2015a; CTV 2015b; CTV 2015c). Căn cứ vào các quy định pháp luật của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại, Nguyễn Viết Dũng đã làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhưng hiện nay Dũng lại bị bắt giam và có thể bị nhà cầm quyền Việt Nam gán cho một tội danh để khởi tố. Trong lúc bị giam giữ, "do bày tỏ thái độ bất hợp tác nên Nguyễn Viết Dũng đã bị CA đánh đập nhiều chỗ trên người, trong đó đau nhất ở phần xương sườn" (CTV 2015d). Ngay sau khi Nguyễn Viết Dũng bị giam giữ, có nhiều tổ chức dân sự lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền thả tự do và phản đối việc bắt giữ tùy tiện của công an (Xem, thí dụ như, Bloc 2015; MLBVN 2015). Cho đến nay (tháng 8 năm 2015) Nguyễn Viết Dũng vẫn còn bị giam giữ một cách bất hợp pháp và gia đình vẫn chưa được gặp Dũng (Minh 2015).
Hình 1 là bức tranh chân dung Nguyễn Viết Dũng, cờ vàng trên đất nước Việt Nam, và con hổ tượng trưng biệt danh "Dũng Phi Hổ" của anh. Bức tranh do họa sĩ Trần Thúc Lân thực hiện dành cho tổ chức Quỹ Tù Nhân Lương Tâm, một tổ chức cung cấp ủng hộ tinh thần và vật chất cho các tù nhân lương tâm tại Việt Nam.
Hình 1: Nguyễn Viết Dũng, cờ vàng, và con hổ tượng trưng biệt danh "Dũng Phi Hổ"

Nguyên văn lời bài thơ "Kiếp Lưu Vong" như sau
Em hỏi tôi: Sao thoát kiếp lưu vong?
Tôi cười buồn, tôi đâu hơn gì thế
Đôi mắt nàng buồn ướt hai dòng lệ
"Đến bao giờ dân tộc được tự do"?

Đến bao giờ dân tộc được tự do?
Khi cộng sản vẫn còn cai trị?
Tiếng gọi công dân rơi vào cơn mộng mị
của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền

Em nhìn tôi xem: khác gì kẻ điên?
Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ
Dòng đời vẫn trôi: Tôi cúi đầu bàng bẽ
Dân khí cạn rồi?

Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?
Và xương máu tiền nhân khai hoang mở nước?
Lẽ nào ta mãi sống đời bạc nhược?
Để cộng nô kia mãi mãi đọa đày?

Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?
Thoát kiếp lưu vong, tự do mang về tới?
Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?
Đồng bào ơi: Cùng đáp thay tôi.


Trong bài này, tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, hoặc người xem. Khi thảo luận các vấn đề ngữ học, tôi dùng "chữ" để chỉ cả mẫu tự (alphabet) và từ (word). Lý do là "từ" thường dễ bị lầm lẫn là "từ khi" hoặc "từ chỗ." Ý nghĩa của "chữ" thường rõ trong nội dung (Cao-Đắc 2014, 451).
Trước khi nói về bài thơ "Kiếp Lưu Vong," tôi muốn nhân dịp này thảo luận tổng quát về thơ (poetry) hoặc thi ca để đặt nền tảng giúp cho việc phân tích bài thơ "Kiếp Lưu Vong."
A. Mục đích tối thượng của thơ, như mọi tác phẩm nghệ thuật khác, là đem con người lại gần nhau; do đó, không có gì lạ khi thơ được dùng trong việc chống đối những lực cản trở việc này.


Thơ là gì? Làm thơ hay đọc thơ có lợi ích gì? Đó là những câu hỏi căn bản về thơ. Tôi sẽ không thảo luận vào chi tiết những khía cạnh kỹ thuật về thơ hay thi ca, như âm, vần, nhịp điệu, và các quy luật cho các thể thơ. Độc giả có thể tìm hiểu thêm trong các tài liệu khác. Xem, thí dụ như, Wikipedia 2015a; Wikipedia 2105b.  


1. Định nghĩa và tác dụng của thơ:

Thơ có nhiều định nghĩa. Theo một định nghĩa thông thường nhất, "[t]hơ là một dạng văn chương dùng các phẩm chất thẩm mỹ và nhịp điệu của ngôn ngữ để đem lại những ý nghĩa thêm vào, hoặc thay cho, ý nghĩa nôm na bề ngoài" (Wikipedia 2015a). Aristotle (384 TCN - 322 TCN) (TCN = trước công nguyên), triết gia và khoa học gia Hy Lạp nổi tiếng, coi thơ "bắt chước" cuộc sống vì "thơ mời mọc ta tưởng tượng đề tài là thực trong khi tự nhận đó là hư cấu" (SparkNotes 2005). "Bắt chước" nghe có vẻ không tốt, nhưng tôi nghĩ Aristotle, nếu sinh vào thời đại này, sẽ dùng chữ “diễn tả” vì thực ra “diễn tả” một việc giống như là "bắt chước" việc đó. 
Như các thể loại nghệ thuật khác, mục đích của thơ là diễn tả những gì xảy ra trong cuộc đời như cảnh vật, tâm trạng, hoàn cảnh, ý tưởng, câu chuyện, xã hội, hoặc con người. Do đó, cách diễn tả là điểm quan trọng trong thơ. "Đề tài không quan trọng; chiều sâu của tưởng tượng, và cách đặt tưởng tượng đó vào ngôn ngữ mới quan trọng" (Addonizio và Laux 1997, 66). Một trong những điểm quan trọng của cách diễn tả tư tưởng là mức độ gợi ý hoặc kích động suy nghĩ của người đọc. Để đạt mục tiêu này, người viết, hoặc làm, thơ, thường được gọi là thi sĩ, phải biết cách khai thác ý tưởng và những khái niệm căn bản của con người như vẻ đẹp, đạo đức, và niềm tin. "Không ai có thể xưng là thi sĩ nếu người đó không truy vấn ý tưởng, luân lý, và niềm tin của mình" (sđd., 23). Điề̉u đó không có nghĩa là người làm thơ phải cố gắng diễn tả những ý tưởng cao siêu, trừu tượng, hoặc lý thuyết. Cái truy vấn ý tưởng nhiều khi chỉ đơn giản là ghi nhận tình cảm, nhất thời hay lâu dài, về một kinh nghiệm sống nào đó. "Thơ mang ra cái gì bên trong bạn - cho dù đó là một hồi tưởng, một ý tưởng triết lý, một mối tình sâu đậm với một người khác hoặc thế giới, hoặc sự sợ hãi thần thánh ma quỷ" (sđd., 22).
Trong bài này, tôi không thể thảo luận đầy đủ các kỹ thuật làm thơ và các lý thuyết về viết thơ và đọc thơ, thưởng thức thơ. Độc giả có thể tham khảo các tài liệu khác qua sách vở hoặc trên mạng. 
 Làm thơ hay đọc thơ có lợi ích gì?

Đã có nhiều tài liệu nói đến sự ích lợi của làm thơ hoặc đọc thơ. Các ích lợi tổng quát gồm có: thơ giúp ta đối phó và đơn giản hóa sự phức tạp; thơ giúp ta phát huy cảm tưởng sắc bén cho đồng cảm (empathy); đọc và viết thơ giúp ta phát triển sức sáng tạo; thơ dạy ta truyền cuộc sống với sự đẹp đẽ và ý nghĩa (Coleman 2012). Các ích lợi tổng quát này áp dụng cho cả hai hoạt động viết thơ hay "làm" thơ, và đọc thơ. Ngoài các ích lợi chung đó, mỗi hoạt động đểu có những ích lợi riêng của nó. Thông thường, người viết thơ cũng đọc thơ, nhưng người đọc thơ không nhất thiết là biết viết thơ. 
Ích lợi của viết thơ khá nhiều, nhất là với giới trẻ. Tôi có thể liệt kê một số: giúp phát huy tinh thần cởi mở, chân thành, tinh tế, sâu sắc, nhạy cảm; củng cố niểm tự tin và sức mạnh bản ngã; phát triển nhận diện và thông cảm; giúp củng cố khả năng nói chuyện, biểu lộ ý tưởng, và tạo các mối liên hệ bền vững; giúp phát triển tài dùng ngôn ngữ, cách dùng chữ; hiểu biết thêm về các khía cạnh rộng lớn hơn và quý trọng cuộc sống hơn (Pongo).
Ích lợi của đọc thơ gồm có: cải tiến tài ăn nói và trí nhớ; cải tiến đường lối suy nghĩ phán đoán (critical thinking); phát huy đồng cảm và sáng suốt; khuyến khích tham gia vào các dạng nghệ thuật khác (Matus).

Những ích lợi trên tùy vào từng cá nhân, và không phải ai cũng có được ích lợi giống nhau. Tuy có nhiều ích lợi khác nhau, theo tôi, có một điểm ích lợi có lẽ tối thượng cho cả viết thơ và đọc thơ. Ích lợi này có chung cho cả hầu hết các lãnh vực nghệ thuật khác như văn xuôi, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v. Đó là phát huy niềm thông cảm và hiểu nhau. Thơ đòi hỏi sự diễn tả và sự hiểu cái diễn tả đó. Vì vậy, thơ có tác dụng giúp con người hiểu nhau hơn và mang con người gần nhau hơn.
Hiểu nhau hơn không có nghĩa là thích hoặc đồng ý lẫn nhau, nhưng ít nhất có sự hiểu biết về quan điểm và tâm trạng của người khác. Nhờ vậy, sẽ có những cách đối xử hoặc biện pháp đối phó có tính cách nhân bản và/hoặc dè dặt trong những mâu thuẫn hoặc xung đột. 
2. Thơ chính trị:
Thơ là một phần của thi ca, và như âm nhạc, nội dung thơ có nhiều thể loại: tình yêu, cảnh vật, cuộc sống, con người, xã hội, quê hương, chính trị, v.v. Trong chính trị, thơ có thể có hai loại: chống đối và kêu gọi. Sự phân loại thường không rõ rệt vì hai loại có thể được ghép chung vào một. 
Như các hình thức chống đối bằng nghệ thuật, thơ là một khí cụ thường được dùng để bày tỏ ý tưởng chống đối. Thơ chống đối thường tấn công một hay nhiều vấn đề nào đó trong xã hội và nhắm vào chính quyền. Các vấn đề này có thể là bất kỳ vấn đề gì ảnh hưởng đến cuộc sống của dân, từ văn hóa cho đến kinh tế, cơ cấu chính quyền, và ngoại giao. Thơ kêu gọi thường kêu gọi, hô hào, kích động khán giả tham gia vào một hoạt động nào đó để đạt một mục tiêu chính trị. "Sức mạnh của thơ dùng là khí cụ chống đối là một bài thơ xuất sắc lôi kéo chúng ta, máu và xương, con tim và trí tuệ, trong việc cung cấp hoặc kích động sự chống đối" (Kenseth 1968, xvi). Hoạt động đó có thể là sự bày tỏ phản ứng hoặc thái độ của dân về một sự chống đối đặc biệt, thí dụ hô hào dân biểu tình chống lại phí phạm ngân sách trong việc xây tượng đài Hồ Chí Minh. Thông thường, thơ kêu gọi gồm có sự chống đối, nhưng thơ chống đối không nhất thiết gồm có, hoặc dẫn đến, lời kêu gọi.
Một trong những bài thơ chống đối nổi tiếng nhất là bài "The Masque of Anarchy" (Mặt Nạ của Phi Pháp) của Percy Bysshe Shelley (1792-1822), thi sĩ và văn sĩ Anh. Shelley víết bài "The Masque of Anarchy" cho vụ thảm sát tại Manchester, còn được gọi là thảm sát Peterloo, vào năm 1819. Bài thơ được coi có ảnh hưởng trên Leo Tolstoy và Mahatma Gandhi và các cuộc đấu tranh bất bạo động (Wikipedia 2015c). Bài thơ gồm có 91 đoạn. Mỗi đoạn có bốn câu. Đoạn 8 và 9 của bài thơ như sau:

VIII.
Last came Anarchy: he rode

On a white horse, splashed with blood;
He was pale even to the lips,
Like Death in the Apocalypse.

                IX.
And he wore a kingly crown;
And in his grasp a sceptre shone;
On his brow this mark I saw—
"I am God, and King, and Law!"

(Rồi tên Phi Pháp đến sau
Cưỡi con ngựa trắng vấy màu máu tươi
Làn da tái nhợt cả môi
Trông như thần chết trong thời đổi thay
Trên đầu vương miện trưng bày
Sáng ngời quyền trượng trong tay kẻ tà
Dấu hằn trên trán ghi ra
"Trời, Vua, Luật Lệ, chính là tao đây!")


Một cách tiên tri, trong bài thơ "The Masque of Anarchy," Shelley mô tả tình trạng xã hội hỗn loạn, phi pháp, không có chính quyền, y như tình trạng tại Việt Nam hiện nay, khi nhóm cầm quyền coi họ như Trời, Vua, và Luật Lệ.
Tuy mục đích gần của thơ chống đối là chống chính quyền, mục đích xa và quan trọng hơn là cải thiện xã hội, cuộc sống dân, và đôi khi cứu nguy cho đất nước. Do đó, thông thường thơ chống đối có mục tiêu cứu dân độ thế, và nhắc đến lịch sử quốc gia. Khái niệm này được nhấn mạnh bởi Czesław Miłosz (1911 - 2004), người đoạt giải Nobel về văn chương năm 1980. Miłosz viết bài thơ "Dedication" (Lời đề tặng) vào năm 1945. Trong bài thơ "Dedication," Milosz nói với một thi sĩ trẻ, chết trong lúc Đức quốc xã chiếm đóng Warsaw (Nair 2011). Một đoạn trong bài như sau:
What is poetry which does not save 

Nations or people? 
A connivance with official lies, 
A song of drunkards whose throats will be cut in a moment, 
Readings for sophomore girls. 
(Thơ là gì nếu không cứu
Quốc gia và dân chúng?
Là đồng lõa với dối trá chính quyền,
Là bài hát cho những kẻ ghiền rượu bị cắt cổ trong giây lát,
Là bài đọc cho các cô học trò lớp mười.)

Đối với Milosz, một bài thơ mà không nhắm vào việc cứu giúp dân chúng hoặc tổ quốc thì chỉ là bài đọc vô ích. Với ông, lịch sử rất quan trọng trong thơ. "Milosz đem lịch sử vào thơ ông vì ông cảm thấy lịch sử dẫn dắt chúng ta, dù chúng ta không thể khám phá tại sao và làm sao" (Lazer 2003). Việc tiếp xúc với lịch sử cũng phải được bao gồm trong thơ vì ta không thể tách rời học sử và học ngôn ngữ (sđd.). "Milosz coi trách nhiệm viết của ông là nhớ những người đã chết trong cuộc nổi dậy và trại tập trung và những người vẫn còn chịu đau khổ trong lao tù" (Heaney 2011). Theo Milosz, có một mức độ ý thức dùng để đánh giá thơ và thơ ở dưới mức độ ý thức đó là thơ dở và thơ đó không cứu được ai hết (Addonizio và Laux 1997, 66). Do đó, chính khía cạnh ý thức quyết định tính chất của thơ, cho dù thơ không nói trực tiếp đến các đề tài chính trị hoặc lịch sử (sđd.).


Thơ chống đối không nhất thiết trực tiếp phản đối chính quyền. Nhiều khi, thơ chống đối chỉ cần trình bày các khía cạnh tệ mạt của xã hội. Vạch ra những tệ trạng xã hội hoặc những hình ảnh gợi ra sự độc tài, tàn bạo, thối nát, tham nhũng của chính quyền cũng là một cách chống đối. Sau đây là vài thí dụ về các bài thơ Việt Nam có tính chất chống đối.


Tôi bước đi

        không thấy phố
             không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
               trên màu cờ đỏ
(Trần Dần - Nhất định thắng)

"Không có gì quý hơn độc lập tự do"
Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
Việc nó làm, tội nó phạm ra sao
(Nguyễn Chí Thiện - "Không có gì quý hơn độc lập tự do")
Thơ chống đối có thể có hay không có hàm ý kêu gọi người dân đòi hỏi chính quyền thỏa mãn sự chống đối. Khi lời kêu gọi không rõ rệt, người đọc có thể không hiểu ý định của tác giả. 
Tuy thơ chính trị phản ảnh sự khác biệt ý tưởng giữa dân và chính quyền, và thường biểu lộ sự bất mãn của người dân đối với các hiện trạng xã hội hoặc các hành động chính quyền, mục tiêu tối thượng của thơ chính trị, như mọi loại thơ khác, là tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau và mang con người lại gần nhau hơn. Khi có những bất công trong xã hội, hoặc khi chính quyền bất chấp nguyện vọng của người dân, hoặc có những hành động đi ngược lại quyền lợi quốc gia tổ quốc, con người bị tách xa nhau và tạo nên căng thẳng, mâu thuẫn, và có thể dẫn đến xung đột bạo lực. Do đó, thơ chính trị có mục đích xóa bỏ những cản trở này để đem lại ổn định và trật tự cho xã hội và quốc gia. Ngoài ra, trong một nước dưới chế độ độc tài, điển hình là nước Việt Nam cộng sản hiện nay, chế độ cộng sản là một cản trở cho sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Thơ chính trị (chống đối và/ hoặc kêu gọi), do đó, nhắm vào đánh đổ sự cản trở này để đem con người lại gần nhau hơn.
Một khía cạnh quan trọng về thơ chống đối và/ hoặc kêu gọi, nhất là trong thơ Việt Nam, là thể loại của bài thơ. Với một bài thơ chống đối thuần túy và không có mục đích kêu gọi hay hô hào, loại thơ nào cũng thích hợp. Đó là vì trong trường hợp này, khía cạnh chống đối coi như là diễn tả ý tưởng về một tình trạng xã hội và do đó thể loại thơ nào cũng có thể được dùng tùy vào ý thích của tác giả. Khi bài thơ vửa chống đối vừa kêu gọi, thể loại thơ đóng vai trò quan trọng vì mỗi thể loại có tác dụng kêu gọi khác nhau.
Để có thể tạo tác dụng mạnh trong việc kêu gọi dân chúng, lời kêu gọi nên có những khía cạnh thích hợp. Ta nên nhớ một bài thơ không phải là một bài diễn văn, và khán giả thường không có nhiều thì giờ để nghiền ngẫm về ý nghĩa của câu thơ. Lời kêu gọi cũng đánh vào tâm hồn khán giả, vì yếu tố tình cảm khá quan trọng trong việc kích động ý chí con người. Ngoài ra, thơ kêu gọi nên dễ đọc và dễ nhớ để có thể được truyền bá rộng rãi trong dân chúng. Vì những lý do này, thể loại thơ thích hợp cho kêu gọi là thơ có vần, vì vần điệu giúp lời thơ trôi chảy, dễ đọc và dễ nhớ. Trong các thể loại thơ có vần Việt Nam, có lẽ thể bốn câu liên kết hoặc song thất lục bát là thích hợp nhất cho thơ kêu gọi, vì vần điệu chặt chẽ, có cả vần bằng và vần trắc, và câu thơ có móc nối, giúp ý tưởng mạch lạc. 
Những khái niệm căn bản về thơ, và tính chất và mục đích của thơ chính trị giúp ta hiểu rõ hơn về bài thơ "Kiếp Lưu Vong." 
B. "Kiếp Lưu Vong" là tiếng khóc bi hùng của một thanh niên yêu nước kêu gọi toàn dân Việt Nam lấy lại khí phách oai hùng của dân tộc Việt để giành lại tự do.
"Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ chính trị, bao gồm cả chống đối và kêu gọi. Tuy nhiên, ý nghĩa chống đối và/ hoặc kêu gọi được diễn tả kín đáo và tinh tế. 
Tác giả viết bài thơ dùng ngôi thứ nhất ("tôi"). Trong một bài thơ, bài hát, hay một truyện, chữ "tôi" không nhất thiết là chính tác giả, mà có thể là vai chính trong câu chuyện, một thanh niên trẻ. Tuy nhiên, qua những gì ta biết về Nguyễn Viết Dũng, ta hiểu bài thơ này là lời của chính Nguyễn Viết Dũng. Do đó, tác giả, Nguyễn Viết Dũng, đang thổ lộ chính tâm trạng của anh qua bài thơ.
Tác giả mở đầu bằng câu hỏi do một người con gái đặt ra làm sao thoát được kiếp lưu vong. Anh không trả lời được câu hỏi mà chỉ cười buồn. Cô gái rơi nước mắt và hỏi khi nào dân tộc mới có được tự do ("Em hỏi tôi: Sao thoát kiếp lưu vong?/ Tôi cười buồn, tôi đâu hơn gì thế/ Đôi mắt nàng buồn ướt hai dòng lệ/ 'Đến bao giờ dân tộc được tự do?'"). Trong thơ, "lấy được chú ý của người đọc trong vài hàng đầu quả là một thử thách" (Goodman 2011, 63). Nhưng ở đây, tác giả vô ngay vào ý chính và khiến người đọc tò mò, muốn đọc thêm ngay.
Ta không rõ mối liên hệ giữa cô gái và tác giả, nhưng chuyện đó không cần thiết. Cô ta có thể là người yêu, bạn học, em gái, hoặc bất cứ một cô gái nào có cùng nỗi ưu tư về đất nước và dân tộc như tác giả. Một cách tinh tế, tác gỉả dường như dùng cô gái là biểu tượng cho người mà tác giả muốn nói với. Do đó, ta có thể hiểu Nguyễn Viết Dũng đang muốn gói ghém tâm sự anh là những lời tâm huyết gửi đến những người trẻ như anh.
Tác giả dùng hai câu hỏi để giới thiệu bài thơ. Câu hỏi không định nghĩa "kiếp lưu vong" hoặc "tự do" mà được đặt dưới dạng như thể vấn đề không còn là nghi vấn. Câu hỏi là làm sao thoát khỏi kiếp lưu vong và khi nào thì có được tự do.
Tác giả lập lại câu hỏi khi nào dân tộc được tự do, khi mà cộng sản vẫn còn cai trị đất nước. Lởi kêu gọi toàn dân chỉ rơi vào quên lãng trong cuộc sống bận rộn, lo lắng sinh sống trong việc kiếm ăn, lo nhà cửa, và tiền bạc ("Đến bao giờ dân tộc được tự do?/ Khi cộng sản vẫn còn cai trị?/ Tiếng gọi công dân rơi vào cơn mộng mị/ của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền"). Bằng cách dùng từ ngữ "cai trị," Nguyễn Viết Dũng khẳng định thực chất của cái gọi là "chính phủ" hoặc đảng cộng sản Việt Nam: đó là một nhóm nắm quyền do bạo lực và không phải do dân chúng ủy thác sứ mạng lo việc nước.
Tác giả dùng "tiếng gọi công dân" với hàm ý lời kêu gọi toàn dân đứng lên. "Tiếng gọi công dân" không phải chỉ là nhóm chữ về lời kêu gọi đến công dân. Một cách có ý nghĩa, nó là nhan đề bài quốc ca VNCH trong miền Nam trước ngày cộng sản hoàn thành việc xâm lăng và cướp đất nước VNCH năm 1975 (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2015b). Nguyễn Viết Dũng dường như đã tìm hiểu nhiều về lịch sử Việt Nam và VNCH. Việc anh quen thuộc với bài quốc ca VNCH không có gì lạ. Anh đã từng hát bài quốc ca này (Xem, thí dụ như, Kỳ 2014) và treo cờ VNCH trên mái nhà anh tại Nghệ An. Do đó, "tiếng gọi công dân" ở đây không phải chỉ là một nhóm chữ tình cờ đặt ra, mà hầu như chắc chắn là tác giả muốn gói ghém các ý tưởng của bài quốc ca VNCH trong câu thơ này. 
Nhóm chữ "rơi vào cơn mộng mị của vòng quay cơm-áo-gạo-tiền" ngụ ý lời kêu gọi toàn dân không có hiệu lực và thường bị bỏ qua hoặc quên đi do cuộc sống kiếm ăn và lo áo mặc và nhà ở. Chữ "vòng quay" cho thấy những bận rộn này như thể không có chấm dứt và người dân cứ bị quay cuồng trong cuộc sống nên trở nên trơ trơ trước tiếng kêu gọi.
Anh hỏi cô gái nhìn anh có khác gì kẻ điên, sống kiếp lưu vong ngay trên quê cha đất mẹ. Cuộc đời vẫn trôi đi và anh vẫn cúi đầu bẽ bàng cho thân phận, tự hỏi phải chăng khí phách dân đã tiêu tan ("Em nhìn tôi xem: khác gì kẻ điên?/ Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ/ Dòng đời vẫn trôi: Tôi cúi đầu bàng bẽ/ Dân khí cạn rồi?"). Tới đây khán giả mới chợt hiểu ý nghĩa của "kiếp lưu vong" ở câu đầu, và tại sao anh muốn thoát kiếp lưu vong. Không, anh không phải là một người tha hương, lưu vong nơi xứ lạ quê người. Anh sống kiếp lưu vong ngay trên xứ sở của anh, nơi quê cha đất mẹ, nơi anh sinh trưởng. Thật là một hình ảnh bi thương khi một người không có cảm tưởng thuộc về quê hương mình khi anh đang sống trên quê hương. Chỉ với câu "Sống kiếp lưu vong ngay trên đất mẹ," Nguyễn Viết Dũng nói lên nỗi tái tê của người dân tại Việt Nam. Đất nước yêu dấu đã trở nên xa lạ, như một xứ nước ngoài. Còn gì chua xót hơn? Với câu "Dân khí cạn rồi?" Nguyễn Viết Dũng nhắc đến khí phách của dân tộc Việt qua hàng ngàn năm lịch sử, và tự hỏi phải chăng khí phách kiêu hùng của dân tộc Việt đã suy đồi tiêu tan.
Khí phách ấy mở đầu với Hai Bà Trưng qua tiếng trống Mê Linh nổi lên đánh đuổi Tô Định và quân Đông Hán, và tiếp tục với biết bao công trình của cha ông bảo vệ đất nước và mở mang bờ cõi qua các đời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần rồi đến nhà Hậu Lê và các đời chúa Nguyễn với công trình Nam tiến, Quang Trung, Gia Long. Với lịch sử kiêu hùng, lẽ nào chúng ta sống cuộc đời hèn yếu, cúi đầu chịu lũ cộng nô đày đọa? ("Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?/ Và xương máu tiền nhân khai hoang mở nước?/ Lẽ nào ta mãi sống đời bạc nhược?/ Để cộng nô kia mãi mãi đọa đày?"). Phù hợp với tư tưởng của Czesław Miłosz, Nguyễn Viết Dũng gói ghém lịch sử với ngôn ngữ vì "ta không thể tách rời học sử và học ngôn ngữ" trong thi ca (Lazer 2003). Bài thơ không chính yếu nói về lịch sử, nhưng Nguyễn Viết Dũng nhắc đến lịch sử như một "mức độ ý thức" do Miłosz đưa ra. Cái "mức độ ý thức" đó thật là sâu sắc vì nó làm nổi bật nỗi bi thương của tác giả trong kiếp lưu vong trên một đất nước đã từng có lịch sử kiêu hùng. Chính nét kiêu hùng đó khiến Nguyễ́n Viết Dũng cảm thấy xa lạ với đất nước hiện nay, vì nhóm cầm quyền đã và đang hủy diệt khí phách kiêu hùng cố hữu của dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Anh đã trở thành kẻ lưu vong trên chính quê hương anh vì anh không còn nhận ra quê hương xứ sở của anh nữa. Với từ ngữ "cộng nô," tác giả khẳng định nhóm cầm quyền cộng sản chỉ là nô lệ cho quan thầy Tàu cộng như đã được biết rõ qua cách hành xử hèn nhát của chúng đối với Tàu cộng và những áp bức tàn ác trên dân chúng và những người đấu tranh cho tự do dân chủ. 
Tiếp tục với lối dùng câu hỏi tu từ, trong đoạn chót Nguyễn Viết Dũng muốn biết bao giờ lá cờ vàng tung bay, cho thấy tổ quốc trở về trên đất nước thân yêu để anh thoát kiếp lưu vong, và có được tự do. Anh không thể nào trả lời được câu hỏi đó, và kêu gọi toàn dân hãy trả lời giùm anh ("Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?/Thoát kiếp lưu vong, tự do mang về tới?/ Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?/ Đồng bào ơi: Cùng đáp thay tôi"). Đoạn này có vài điểm quan trọng cần thảo luận kỹ.
Trước hết, tác giả nhắc đến lá cờ vàng ("hoàng kỳ"). Đối với người cộng sản, lá cờ vàng đem cho họ nỗi khiếp sợ kinh hồn vì nó đem lại hình ảnh chính thể VNCH, và họ cố gắng dẹp bỏ hình ảnh lá cờ vàng trong nước và tại cộng đồng người Việt hải ngoại. Thật là kỳ lạ, mang tiếng là kẻ "thắng cuộc," tại sao cộng sản lại khiếp sợ lá cờ vàng của VNCH đến độ như vậy? Ta thừa hiểu đó là vì người cộng sản biết là họ thực sự không thắng VNCH trong cuộc chiến. Họ chỉ nhờ may mắn và dựa vào yểm trợ của Nga Tàu để xâm lăng và cướp được miền Nam Việt Nam. Ngoài ra cộng sản biết họ chỉ là lũ cướp chính quyền, và lá cờ vàng, hiện hữu trước lá cờ đỏ cộng sản, tiêu biểu chính nghĩa quốc gia. Những kẻ cầm quyền cộng sản, do đó, rất khiếp đảm khi thấy lá cờ vàng như ác quỷ thấy dấu hiệu thánh giá hoặc Phật.
Nhưng Nguyến Viết Dũng có thực sự nhắc đến lá cờ vàng của VNCH trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" hay không? Nguyễn Viết Dũng đã từng treo lá cờ vàng của VNCH trên nhà anh ở Nghệ An. Anh còn mặc quân phục có phù hiệu phản ảnh VNCH. Tuy nhiên, "hoàng kỳ" trong câu "Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?" không nhất thiết là lá cờ vàng của VNCH vì lý do sau. Trong câu trước, tác gỉả nhắc đến "Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?" Có nhiều giai thoại lịch sử cho biết Hai Bà Trưng dùng lá cờ vàng như là quốc hiệu trong khoảng thời gian ba năm ngắn ngủi họ cai trị Việt Nam thời ấy. Ngoài ra, lá cờ vàng ba sọc đỏ hoặc các dạng biến thể đã hiện diện và được dùng từ các triều đại nhà Nguyễn, rõ ràng nhất là thời vua Bảo Đại, trước khi lá cờ đỏ của cộng sản dựng lên trong cuộc cướp đoạt chính quyền của Quốc Gia Việt Nam vào năm 1945. 
Qua việc nhắc đến Hai Bà Trưng, dường như tác giả muốn liên kết cờ vàng với tổ quốc Việt Nam từ thời xa xưa. Đương nhiên, vì VNCH là chính thể của Quốc Gia Việt Nam, "hoàng kỳ" cũng hàm ý lá cờ vàng của VNCH. Nhưng quan trọng hơn, "hoàng kỳ" là lá cờ của chính nghĩa, và chính thống là của tổ quốc Việt Nam. Chính vì vậy mà chỉ khi lá cờ vàng tung bay trên đất nước, tổ quốc mới trở lại trên đất nước Việt Nam, và người lưu vong mới thoát được kiếp lưu vong để thuộc về quê cha đất mẹ, và không còn cảm thấy lạc lõng nữa.
Thứ nhì, tác giả có thực sự không biết câu trả lời cho câu hỏi anh đặt ra hay không? Câu "Câu hỏi này sao tôi đáp nổi?" chỉ cho biết làm sao mà anh trả lởi được, nhưng ta không biết lý do tại sao anh không trả lời được. Ta nhận thấy mọi câu hỏi trong bài thơ đều là những câu hỏi tu từ, và người hỏi đều có câu trả lời, nhưng anh vẫn hỏi để đặt vấn đề, vả dùng các câu hỏi để hàm ý cho ý nghĩa khác. Một cách tinh tế, tác giả muốn đồng bào anh trả lời gìùm anh. Trả lời tức là hành động. Tác giả khéo léo đẩy trách nhiệm trả lời tới toàn dân, như gián tiếp kêu gọi toàn dân hãy ra tay hành động. Câu "Đồng bào ơi: Cùng đáp thay tôi" ngụ ý toàn dân hãy đoàn kết ("cùng") và hành động để vất bỏ chế độ cộng sản và đem lại tự do cho toàn dân. Câu này liên kết với nhóm chữ "Tiếng gọi công dân" trong đoạn trước như cho lóe lên một niềm hy vọng là toàn dân sẽ "đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống" (Cao-Đắc 2015b) trong cuộc đấu tranh cho tự do.
Tóm lại, Nguyễn Viết Dũng viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong" với một kỹ thuật tuyệt vời. Ý nghĩa của các câu thơ thật đơn sơ, không có gì cầu kỳ, không có gì khó hiểu, nhưng ta nghe được tiếng khóc văng vẳng của những người trẻ với lòng yêu nước tràn trề̉. Tiếng khóc ấy không phải là tiếng khóc của người nhu nhược yếm thế, mà là tiếng khóc thương xót cho tổ quốc thương yêu đã bị lũ quỷ đỏ dày xéo cướp bóc và tiêu hủy. Tiếng khóc ấy là dấu hiệu của lòng can đảm và ý chí cương quyết sẽ bùng dậy.
Ý nghĩa chống đối và kêu gọi trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" rất tinh tế. Sự chống đối được diễn tả qua những câu xác định về mất tự do vì sự cai trị của cộng sản, sự thờ ơ của dân chúng vì cuộc sống quay vòng, và sự thoái hóa của khí phách dân tộc, và hèn nhát chấp nhận bị cộng nô đày đọa. Ngoài việc bày tỏ chống đối, "Kiếp Lưu Vong" còn là lời kêu gọi toàn dân đoàn kết để giành lại tự do đã bị cộng sản cướp đi. 
C. Với thể loại thơ bốn câu liên kết thích hợp cho mục tiêu chống đối và kêu gọi, "Kiếp Lưu Vong" diễn tả ý tưởng thật hữu hiệu với cách dùng các kỹ thuật mỹ từ như câu hỏi tu từ và ẩn dụ.
Như trình bày ở trên, bài thơ "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ vửa chống đối vửa kêu gọi. Do đó, thể thơ bốn câu liên kết rất thích hợp cho mục tiêu này. Thể bốn câu liên kết khá thông dụng cho nội dung kể lể hoặc lời kêu gọi (thí dụ như bài hịch). Sự liên kết hoặc móc nối một đoạn sang đoạn kế tiếp được thực hiện qua vần cuối câu, tạo nên sự trôi chảy theo thứ tự. Một bài thơ theo thể này có nhiều đoạn. Mố̃i đoạn có bốn câu. Mỗi câu có khoảng tám chữ (words) tương đương với tám âm tiết (vì tiếng Việt là tiếng đơn âm). Có câu dùng bảy hoặc chín chữ để thay đổi âm hưởng. Trong mỗi đoạn, vần luôn luôn gieo cuối câu. Câu đầu hay thứ nhất vần với câu chót của đoạn trước. Câu thứ nhì vần với câu thứ ba. Câu chót vần với câu đầu của đoạn kế tiếp.
Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" gồm có năm đoạn, mỗi đoạn có bốn câu. Mỗi câu có khoảng tám chữ. Có câu có bảy hoặc chín chữ để thay đổi âm hưởng. Đặc biệt, câu "Dân khí cạn rồi?" chỉ có bốn chữ, có tác dụng nhấn mạnh.
Bố cục bài thơ khá chặt chẽ với lối nhập đề trực tiếp gây chú ý ngay trong câu đầu. Ý chính của bài thơ về ý nghĩa của kiếp lưu vong nằm ở đoạn 3. Đoạn 4 gợi ý cho giải đáp vấn đề. Đoạn chót đưa ra giải đáp.
 1.    Bài thơ có vần điệu chặt chẽ với nhịp điệu thay đổi tạo nên nét linh động và gây cảm xúc:
Như được trình bày ở trên, bài thơ viết theo thể loại vần liên kết. Trong mỗi đoạn bốn câu, vần được gieo ở hai câu giữa và ở cuối câu. Vần còn được gieo từ đoạn này qua đoạn khác qua móc nối câu chót của một đoạn với câu đầu đoạn kế. Thí dụ, trong đoạn 1, hai câu giữa có vần "thế" và "lệ." Câu chót của đoạn 1 vần với câu đầu của đoạn 2 ("do" với "do"). Tiếp tục là các vần trong đoạn và giữa hai đoạn như sau: "trị" với "mị," "tiền" với "điên," "mẹ" với "bẽ," "nước" với "nhược," "đày" với "bay," và "tới" với "nổi." Để ý là vần trong đoạn theo vần trắc và vần nối hai đoạn theo vần bằng. Vần trắc thường tạo tác dụng mạnh mẽ. Do đó dùng vần trắc trong đoạn gây tác dụng mạnh trên khán gỉả. Vần bằng cho móc nối các đoạn tạo âm điệu nhẹ nhàng, thích hợp cho sự trôi chẩy của cả bài. Đặc biệt, không có vần nối đoạn 3 và đoạn 4 vì tác giả muốn dùng biến thể để tạo nét thay đổi và nhấn mạnh ý tưởng của ý chuyển tiếp giữa "dân khí" và "tiếng trống Mê Linh."
Vần là chỗ nhấn mạnh ý tưởng. "Một chữ có vần được nổi bật lên - bạn có thể dùng vần để nhấn mạnh những chữ quan trọng. Và vì vần chính yếu lả tiếng vang, nó cho cảm giác kết thúc" (Addonizio và Laux 1997, 145). Ngoài việc vần được gieo rất chỉnh, tác giả chọn vần cho từ ngữ quan trọng cho ý của câu. Thí dụ, "trị" trong "cai trị" nhấn mạnh tính chất đô hộ của cộng sản, "mị" trong "mộng mị" nhấn mạnh sự mê man của người Việt, "đày" trong "đọa đày" nhấn mạnh tính chất tàn bạo của cộng nô, "bay" trong "tung bay" vẽ ra hình ảnh tự do và giải thoát.
Tuy bài thơ "Kiếp Lưu Vong" viết theo thể loại có vần với quy luật chặt chẽ, tác giả không dùng số chữ (words) cố định ở tám chữ mỗi câu, mà thay đổi vài câu có 7 chữ hoặc 9 chữ. Đặc biệt, câu "Dân khí cạn rồi?" chỉ có bốn chữ. Cách dùng biến thể này giúp tạo nên nhịp điệu linh động và gây cảm xúc cho bài thơ. Câu "Dân khí cạn rồi?" tạo ra một quãng nghỉ, giúp cho người đọc/ nghe có dịp ̣để ý tưởng thấm dần, và để chuẩn bị cho câu kế tiếp. Để ý là ca khúc của nhạc sĩ Dzuy Lynh tạo cùng tác dụng bằng cách nhắc lại toàn câu "Dân khí cạn rồi?" như một tiếng vang dội lại.
2.    Bài thơ dùng các câu hỏi tu từ rất hiệu quả và có những ẩn dụ nội dung độc đáo, và nên được truyền bá rộng rãi:


Một trong những khía cạnh của thi ca và văn xuôi là cách dùng mỹ từ. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có hai kỹ thuật mỹ từ nổi bật: câu hỏi tu từ và ẩn dụ. 
a)    Các câu hỏi tu từ đem lại tác dụng gia tăng mức độ hiểu biết của người đọc về thông điệp trong bài thơ:
Tất cả những câu hỏi trong bài thơ đều là câu hỏi tu từ. Vài thí dụ của các câu hỏi tu từ trong bài như sau:
Sao thoát kiếp lưu vong?

Đến bao giờ dân tộc được tự do?
Còn nhớ chăng tiếng trống Mê Linh?
Đến bao giờ Hoàng Kỳ tung bay?

Tác giả dùng câu hỏi tu từ để lôi cuốn khán giả, khiến khán giả phải tham gia vào sự suy nghĩ, và do đó gây tác dụng mạnh trên khán giả. Quan trọng hơn, "câu hỏi tu từ có thể là một khí cụ mạnh mẽ cho việc thuyết phục hoặc kích động suy nghĩ" (Licciardi). Có nhiều nghiên cứu tâm lý học cho thấy câu hỏi tu từ giúp gia tăng sự thuyết phục trong một thông điệp, nhất là với những người thờ ơ hoặc ít có động cơ dính líu về vấn đề nêu ra trong thông điệp đó. "Dưới những điều kiện ít dính líu, khi đối tượng không có được động cơ thúc đẩy một cách tự nhiên để tiến hành thông điệp kỹ lưỡng, các câu hỏi tu từ làm gia tăng ý tưởng về thông điệp" (Petty, Cacioppo, và Heesacker 1981, 438). Ngược lại, với những người đã có động cơ mạnh thúc đẩy trong việc dính líu với thông điệp, các câu hỏi tu từ khiến họ bị chia trí ra khỏi sự suy nghĩ bình thường (sđd.).
Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có một tác dụng rất hữu hiệu trên giới trẻ qua cách dùng kỹ thuật câu hỏi tu từ vì lý do sau đây. Đa số thanh thiếu niên nam nữ Việt Nam, dưới nền giáo dục tẩy não và nhổi sọ, không biết rõ sự thật về đảng cộng sản Việt Nam, lịch sử, chiến tranh Việt Nam, và chính thể VNCH. Ngoài ra, cuộc sống xã hội chật vật, nền kinh tế suy đồi và tệ trạng xã hội, tham nhũng, ngày càng gia tăng. Do đó, tuổi trẻ Việt Nam thường ít khi để ý đến các vấn đề "chính trị," và thường sợ hãi hoặc bỏ qua các vấn đề này. Đa số chỉ sống qua ngày, nghe theo lời "khuyên dạy" của nhà cầm quyền hoặc những người được coi là trí thức giáo dục nhưng chỉ là công cụ của chính quyền. Giới học sinh sinh viên thường được khuyên răn là lo chuyện học hành và đừng nghĩ đến "chính trị," hoặc sự tồn vong của tổ quốc. Đa số giới trẻ đi theo trào lưu xã hội qua những tin tức hoạt động văn nghệ, thể thao, giải trí, hoặc kinh tế. Phụ huynh đồng lõa với nhà cầ̀m quyền một cách vô ý thức vì lo sợ tương lai và an ninh cho con em, nên thường cản trở con em tham dự những hoạt động có tính cách "chính trị." Hậu quả là thanh thiếu niên Việt Nam hầu như thờ ơ đến tình trạng đất nước, hoặc dính líu rất í́t đến các hoạt động đấu tranh, cải thiện xã hội. 
Theo các nghiên cứu khoa học kể trên, vì đa số giới trẻ ít để ý đến các vấn đề "chính trị" đưa ra trong bài thơ hay thông điệp, các câu hỏi tu từ gia tăng khả năng thuyết phục trong thông điệp tác giả Nguyến Viết Dũng muốn gửi. Tuy nhiên, sẽ có người phản đối, "Nhưng nếu giới trẻ không để ý đến các sự kiện trong thông điệp, họ sẽ không bỏ thì giờ để đọc bài thơ." Lý luận đó hoàn toàn hợp lý. Để bài thơ có tác dụng trên giới trẻ, ta phải quảng bá, truyền đạt bài thơ một cách rộng rãi. Với các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay qua Facebook, Twitter, blogs, và các tổ chức xã hội dân chủ, việc truyền bá thông điệp của Nguyễn Viết Dũng trong bài thơ "Kiếp Lưu Vong" là một việc dễ dàng.
b)   Các ẩn dụ đem lại nét đẹp cho cách diễn tả và gây tác dụng khó quên cho người nghe:
Ẩn dụ là một hình thức so sánh ngầm. Có hai cách dùng ẩn dụ: hình thức và nội dung. Ẩn dụ hình thức là sự so sánh ngầm được biểu lộ ngay ở chữ dùng. Thí dụ: suối tóc, bờ vai, gió gào. Ẩn dụ nội dung là sự so sánh nằm trong ý nghĩa. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có nhiều ẩn dụ nội dung độc đáo. Những ẩn dụ này giúp bao hàm tính chất chống đối và kêu gọi của bài thơ, và khiến bài thơ không có những lời lẽ bộc lộ rõ ràng.
Ẩn dụ quan trọng nhất trong "Kiếp Lưu Vong" là sự ví von quê hương mình là một xứ sở xa lạ. Cái ví von này có nhiều diễn giải. Thứ nhất, quê hương tác giả không thay đổi nhưng tác giả thay đổi và cảm thấy lạc lõng. Thí dụ tác giả có thể sinh sống ở hải ngoại một thời gian là kẻ lưu vong, nhưng khi trở lại quê hương thì không thích hợp với cuộc sống vì anh đã thay đổi và do đó lại sống cuộc sống lưu vong ngay tại quê hương mình. Ta thấy ngay đó không phải là diễn giải của "Kiếp Lưu Vong" vì Nguyễn Viết Dũng sống tại Việt Nam trong suốt quãng đời anh cho tới nay. Thứ nhì, tác giả sinh trưởng nơi đất mẹ và không rời xa quê hương, nhưng quê hương anh thay đổi. Anh không còn tìm thấy những đặc tính của quê hương dân tộc mà anh biết như tự do và khí phách oai hùng. Do đó, anh cảm thấy anh là kẻ xa lạ với chính quê hương anh. Đó chính là diễn giải thích đáng của bài thơ.
Ẩn dụ thứ hai là sự ví von lá cờ vàng tượng trưng cho tự do. Điều này chỉ có thể xảy ra khi lá cờ đỏ của cộng sản bị tiêu hủy, ngụ ý chế độ cộng sản chấm dứt. Mối liên hệ giữa "Hoàng Kỳ tung bay" và "Thoát kiếp lưu vong" tuy có vẻ xa xôi, nhưng thực ra rất chặt chẽ. Lá cờ vàng, ngoài việc tượng trưng cho chính nghĩa của tổ quốc, còn tượng trưng nước VNCH, đang bị cộng sản chiếm đóng. Lá cờ vàng tung bay không những biểu hiện nước VNCH đã vùng dậy lật đổ nhóm đô hộ cộng sản, mà còn biểu hiện tự do trở về trên quê hương vì chính thể VNCH là một chính thể tự do dân chủ.
Ẩn dụ thứ ba là mối liên hệ giữa chính nghĩa tổ quốc và lá cờ vàng qua câu nhắc nhở đến "tiếng trống Mê Linh." Như trình bày ở trên, có các giai thoại lịch sử cho biết lá cờ vàng đã được dùng từ thởi Hai bà Trưng. Do đó, "tiếng trống Mê Linh" không chỉ nhắc đến khí phách oai hùng của dân tộc Việt mà còn nhắc đến tính chất tổ quốc của lá cờ vàng.
Ẩn dụ thứ tư là sự ví von đồng bào trả lời câu hỏi giùm tác gỉả với việc toàn dân đoàn kết để lật đổ chế độ cộng sản. Tác giả khéo léo đẩy trách nhiệm trả lời câu hỏi đến đồng bào anh, vì làm sao anh biết được ý chí của toàn dân thế nào. Nhưng trả lời tức là hành động. Do đó, đẩy trách nhiệm trả lời câu hỏi đến đồng bào là ẩn dụ cho lời kêu gọi đồng bào đoàn kết để đứng lên giành lại tự do.
Các ẩn dụ này được dùng một cách khéo léo và có liên kết với nhau chặt chẽ. Cộng với các câu hỏi tu từ, các ẩn dụ này gia tăng chiều sâu của mức độ ý thức về tình trạng đất nước và sự cần thiết cho một cuộc nổi dậy của toàn dân. "Kiếp Lưu Vong," do đó, có một giá trị thật cao dưới tiêu chuẩn của Czesław Miłosz đề cập ở trên.
D. Kết Luận:

Nguyễn Viết Dũng viết bài thơ "Kiếp Lưu Vong" như lời một chứng nhân sống trong xã hội của chế độ cộng sản Việt Nam. Nguyễn Viết Dũng không những là một thanh niên yêu nước và có nhiệt huyết với tổ quốc mà còn là một người thông minh tài giỏi, có tài năng khác thường. Bài thơ "Kiếp Lưu Vong" là một bài thơ tuyệt diệu, nói lên nỗi xót xa của tuổi trẻ trước cảnh đất nước suy tàn và hiểm họa rơi vào tay Tàu cộng và kêu gọi toàn dân thức tỉnh qua lời nhắc nhở lịch sử oai hùng để nổi lên giành lại chính nghĩa quốc gia và tự do.
Qua thể thơ bốn câu vần liên kết, bài thơ "Kiếp Lưu Vong" có tác dụng hữu hiệu là bài thơ chống đối và kêu gọi. Ý nghĩa chống đối và kêu gọi được diễn tả một cách kín đáo và tinh tế qua cách dùng kỹ thuật câu hỏi tu từ và ẩn dụ. Bài thơ cần được truyền bá rộng rãi trong giới thanh thiếu niên nam nữ tại Việt Nam.
Điểm đặc sắc nhất của "Kiếp Lưu Vong" là lòng can đảm của Nguyễn Viết Dũng khi anh ca ngợi lá cờ vàng ngay trên đất kiểm soát bởi cộng sản. Anh không những chỉ ghi nhận qua bài thơ mà còn thể hiện qua hành động treo lá cờ vàng trên nóc nhà, và mặc trang phục theo QLVNCH. Lòng can đảm đó là tính chất uy dũng của dân tộc Việt, và tinh thần bất khuất của biết bao nhiêu hào kiệt trong lịch sử. Giới trẻ tại Việt Nam nên noi gương Nguyễn Viết Dũng và những thanh niên nam nữ đang đấu tranh cho tự do dân chủ. 
Hãy chấm dứt cuộc sống tạm bợ như những kẻ lưu vong ngay trên đất mẹ.
CẢM TẠ

Tôi xin có lời cám ơn bạn mythanh trên trang mạng Dân Làm Báo đã yêu cầu đề tài, trao đổi ý kiến, khích lệ, và hướng dẫn tôi trong lúc viết bài này.
28/8/2015 
Cao-Đắc Tuấn
​​

No comments :

Post a Comment