Tiến Sỹ LÊ HIỂN DƯƠNG
1- Trần Ích Tắc (1254-1329) là con của
vua Trần Thái Tông, em vua Thánh Tông, chú của vua Nhân Tông nhà Trần nước Đại
Việt, tước hiệu là Chiêu Quốc Vương, phong tháng 5 năm 1267.Đại Việt Sử ký Toàn
thư (ĐVSKTT) viết Trần Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng Trần Thái Tông,
thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Các nghề
vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở
bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo
thành tài như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v... gồm 20
người, đều được dùng cho đời...Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông
kinh sử và các thuật, có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc đã từng gửi thư
riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam.
Khi quân Nguyên Mông
sang xâm lược Việt Nam năm 1285 ngày 15 tháng 3, Ích Tắc đem cả gia đình sang
hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt, vua nhà Nguyên, phong
làm An Nam Quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Ngay sau khi thất bại năm
1285, triều đại nhà Nguyên bắt đầu lại chuẩn bị cho chiến dịch lớn chống lại Đại
Việt với lý do giúp Trần Ích Tắc trở lại làm Vua của An Nam. Năm 1287 của chiến
dịch cuối cùng bởi trận Bạch Đằng ngày 08 tháng ba âm lịch năm 1288, hải quân của
giặc gần như bị phá hủy bởi quân đội dũng mãnh của Trần Hưng Đạo. Việc này cũng
được ghi lại trong ĐVSKTT: Năm 1289, tháng 5, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần
thứ ba, bắt được cả một hòm biểu xin hàng của Trần Ích Tắc. Thượng hoàng Trần
Thánh Tông sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc. Chỉ có kẻ nào đầu
hàng trước đây, thì dẫu bản thân ở triều đình giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội
đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Ích Tắc
là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên,
chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép
đương thời đều gọi là Ả Trần ("người phụ nữ tên là Trần"). Sau thất bại
của triều đại nhà Nguyên, Trần Ích Tắc tiếp tục cuộc sống của mình ở Ngạc Châu,
Hồ Bắc, thường xuất hiện trong chính quyền tỉnh khi Đại Việt đại sứ đi Trung Quốc.
Một lần, Trần Ích Tắc gặp đại sứ Nguyễn Đại Pháp người đã từng là một thư ký
trong cung điện của anh trai Trần Ích Tắc, Hoàng tử Chiêu Đạo (Chiêu Đạo Vương).
Khi Trần Ích Tắc tỏ sự khinh miệt của mình về nghề của Nguyễn Đại Pháp trong
quá khứ, đại sứ của Đại Việt cho biết: “Mọi thứ đã thay đổi, Đại Pháp, một khi
một thư ký cho Hoàng tử Chiêu Đạo, bây giờ đã trở thành một đại sứ. Còn Trần Ích
Tắc, một khi một hoàng tử của Hoàng đế, bây giờ đã trở thành một kẻ đào tẩu”...
Dường như Trần Ích Tắc cảm thấy xấu hổ sau khi sự kiện đó đã không xuất hiện nữa
khi Đại Việt có đại sứ có mặt. Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu (nay thuộc tỉnh Hồ
Bắc) giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh
lộc đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, nghi đồng tam tư và chết ở Trung Quốc
mùa hè năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông, thọ 76 tuổi. Năm Chí
Thuận thứ nhất (1330) được nhà Nguyên truy tặng tước Trung Ý vương.Vì sự phản bội
này mà sau này nhà Trần đã loại Ích Tắc ra khỏi tông thất. Trần Hoàng đế ra lệnh
tên gia đình của tất cả các thành viên khuyết tật của Trần tộc đã được thay đổi
là “Mai”, ví dụ Trần Long được đổi tên là Mai Long, Trần Ích Tắc được miễn thứ
tự này mà được gọi là “Ả Trân”. Năm 1354, có nói Trần Hữu Lượng (Chen Youliang)
là người sáng lập của chế độ “nổi loạn” (vào cuối thời nhà Nguyên), Ngô Sĩ Liên
lưu ý rằng “Chen Youliang” (bằng tiếng Việt: Trần Hữu Lượng) là con trai của Trần
Ích Tắc. ĐVSKTT cũng viết Giáp Ngọ, (Thiệu Phong) năm thứ 14 (1354), (Nguyên
Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho
chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân.
Ở đây, rất có thể là do Trần Hữu Lượng muốn mượn quân đội của nhà Trần nhằm phục
vụ cho quyền lợi của mình nên nói phao lên như vậy, (bởi theo Minh sử (quyển
123, liệt truyện 11) thì cha của Trần Hữu Lượng , sau năm 1364 vẫn còn sống và
được phong làm Thừa Ân hầu). Tuy nhiên vua Trần Dụ Tông từ chối không giúp bởi
vì triều đại nhà Trần đang cần thiết để tập trung lực lượng của mình ở biên giới
phía Nam để chống lại nước Champa.
2 - Lê Chiêu Thống - Lê Mẫn Đế (1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm, khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ, là vị vua thứ 16 và là cuối cùng của nhà Lê trung hưng, thực ở ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 tới đầu tháng giêng năm 1789. Chiêu Thống đã sang cầu viện nhà Thanh đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngai vàng. Việc làm đó của Lê Chiêu Thống bị một số nhà sử học trong nước sau này chỉ trích dữ dội, coi đó là hành vi “bán nước”, “cõng rắn cắn gà nhà”. Bố của Duy Khiêm là hoàng thái tử Lê Duy Vĩ, con của vua Lê Hiển Tông (ở ngôi 1740 - 1786). Trước khi Trịnh Doanh chết, thế tử Trịnh Sâm có hiềm khích sâu nặng với Duy Vĩ. Sau khi lên nối ngôi chúa, tháng 12 năm Tân sửu (1771), Sâm bày mưu hãm hại và giết Duy Vĩ trong ngục. Lê Duy Khiêm cùng hai em là Lê Duy Trù và Lê Duy Chi đều bị bắt đem giam cấm ở ngục Đề Lãnh. Năm đó, Duy Khiêm mới sáu tuổi. Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), sau khi Trịnh Sâm mất, binh lính tam phủ làm loạn, truất thế tử Trịnh Cán, lập thế tử Trịnh Khải. Quân lính đã mở ngục rước ba con của Duy Vĩ về cung. Năm đó Duy Khiêm 17 tuổi, ở trong ngục tổng cộng 11 năm. Duy Khiêm trở về cung, ngôi thái tử của Duy Cận bị đe doạ. Trịnh thái phi vốn ủng hộ Duy Cận sợ Duy Cận mất ngôi thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng đến bắt ép Duy Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết đi. Duy Khiêm từ chối không được, khóc mà ra đi. Khi đi đường, quân tuần sát ngăn lại. Vì thế các quân lính la hét ầm ĩ, yêu cầu tra cứu người lập mưu làm hại thái tôn. Quân lính lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đang chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ đều đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung. Duy Khiêm thoát nạn. Trịnh Khải biết việc này là do thái phi gây ra, bèn dụ quân sĩ thôi làm huyên náo, rồi hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà vua Hiển Tông lập Duy Khiêm làm hoàng thái tôn, lại bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi thái tử. Tháng giêng năm 1783, Duy Khiêm với cương vị là cháu trưởng, được ông nội lập làm hoàng thái tôn, còn chú Duy Cận bị truất làm Sùng Nhượng Công. Lúc ấy Duy Khiêm 18 tuổi.Tháng Bảy năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ với chiêu bài phù Lê diệt Trịnh đã mang quân ra Bắc Hà đánh đổ Trịnh Khải. Quyền bính khi đó ở cả trong tay Nguyễn Huệ. Vua Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên soái phù chính dực vận Uy Quốc Công. Khi đó Bắc Hà rối loạn, lòng người tản mát, vua Lê yếu hèn nhu nhược, chúa Trịnh thì đã bị đánh đổ, tạo ra khoảng trống quyền lực. Tuy nhiên, Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần này là lần đầu, giới sĩ phu Bắc Hà, do tư tưởng chính thống nên còn rất nghi kỵ và nhìn chung có thái độ chống đối với quân Tây Sơn. Phía nam quân Nguyễn Ánh vẫn còn quấy rối, không có Nguyễn Huệ thì không ai đảm đương được. Nguyễn Huệ thấy chưa thể củng cố được vững chắc quyền lực của mình ở Bắc Hà, nên đã quyết định không xưng đế mà để nhà Lê tiếp tục giữ ngôi vua. Quyền phế lập ở cả trong tay Nguyễn Huệ là điều cả ông lẫn nhà Lê đều ý thức được. Hiển Tông trước khi chết dặn lại Duy Khiêm: "Ta chỉ sớm tối sẽ trút bỏ gánh nặng, bây giờ lo lắng việc nước là ở mình cháu, cháu phải nghĩ lấy. Binh lính xứ khác còn đóng ở đây, về việc truyền nối ngôi vua là việc trọng đại, cần phải thượng lượng bàn bạc với nguyên soái (tức Nguyễn Huệ), chớ nên làm tắt". Về việc chọn người nối ngôi, Nguyễn Huệ đầu tiên tham khảo ý kiến vợ là công chúa Ngọc Hân. Công chúa Lê Ngọc Hân khen Duy Cận là người hiền, nhưng sau đó do ý kiến từ các hoàng tộc nhà Lê, Ngọc Hân xin lại với Nguyễn Huệ lập Duy Khiêm. Nguyễn Huệ đồng ý, đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên là Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Năm đó, Chiêu Thống 21 tuổi.Tháng Tám năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Nhạc ra Thăng Long rồi bất ngờ cùng Nguyễn Huệ bỏ vào nam mà không hề báo cho Chiêu Thống. Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng để khôi phục lại vương quyền, dẫn đến cảnh "hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa "bảo vệ". Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn". Thêm vào đó, dư đảng của họ Trịnh là Trịnh Bồng lại nổi lên, được vua triệu về triều, dần dần lấn át quyền hành của vua. Chiêu Thống cũng hiểu được đây là cơ hội khôi phục lại vương quyền chính thống của nhà Lê. Tháng Chín năm Bính Ngọ Chiêu Thống năm thứ nhất (1786), trước yêu cầu phong vương của Trịnh Bồng, vua có cự tuyệt nhưng trước áp lực từ triều thần cùng lực lượng quân đội ủng hộ Trịnh Bồng do Đinh Tích Nhưỡng chỉ huy kéo từ Hải Dương về Thăng Long, vua phải nhượng bộ và phong cho Bồng là Nguyên soái, Tổng quốc chính, Yến Đô Vương. Tuy nhiên, bản thân Trịnh Bồng cũng không nắm được thực quyền, việc quyết đoán nằm cả ở trong tay người thực sự nắm giữ quân đội là Đinh Tích Nhưỡng. Tích Nhưỡng vốn là tướng võ biền, dẫn đến việc cai trị càng rối loạn hơn: "Ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Trong khi đó, Chiêu Thống một mặt tự đề phòng cho bản thân, một mặt bí mật xuống chiếu cần vương, cử người vào Nghệ An thăm dò ý định của trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Hữu Chỉnh.Tình trạng "bằng mặt mà không bằng lòng" giữa Chiêu Thống và Trịnh Bồng thể hiện qua sự kiện bổ nhiệm và đặt tên gọi quan lại sau đó. Chiêu Thống tìm cách nắm lấy binh quyền, nhưng Đinh Tích Nhưỡng, câu kết với Hoàng Phùng Cơ, mượn tiếng đem quân từ Sơn Tây về bảo vệ kinh thành, gây áp lực buộc nhà vua phải trở lại hệ thống cai trị cũ trước kia với quyền hành thực sự nằm cả trong tay chúa Trịnh. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục nhận xét:Mâu thuẫn giữa cung vua và phủ chúa lên đến đỉnh điểm và bùng phát thành bạo lực vào tháng 11 năm Bính Ngọ (1786), sau sự kiện Dương Trọng Khiêm. Khiêm là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ việc khôi phục quyền hành của chúa Trịnh và được Trịnh Bồng đền đáp bằng chức coi giữ bộ Hộ, trông coi về tài chính, thuế khóa. Tuy nhiên, do lo sợ nhà vua khôi phục lại quyền lực, Khiêm xui Trịnh Bồng làm việc phế lập. Bồng nghe theo, sai Nguyễn Mậu Nễ và Bùi Nhuận đang đêm đem quân vào cung khuyết. Hoàng Phùng Cơ nghe tin, sợ bị mang tiếng xấu cùng phe với quân tạo phản, đem quân chặn Mậu Nễ. Mậu Nễ không dám đánh, buộc phải lui quân.Sau sự kiện đó, Chiêu Thống chính thức có chiếu thư cho Nguyễn Hữu Chỉnh kêu gọi đem quân cần vương. Chỉnh đã bỏ nhà Lê theo Tây Sơn, rồi dẫn Tây Sơn ra Bắc Hà, nhưng cũng không được Tây Sơn tin tưởng. Khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rời Thăng Long vào nam đã không cho Chỉnh biết. Chỉnh phải chạy về, rồi được bổ làm trấn thủ Nghệ An. Đến đây, Chỉnh tiếp được mật chỉ, thấy là cơ hội không thể bỏ qua, lập tức truyền đi các nơi, lấy danh nghĩa nhà Lê mộ quân, trong "khoảng mười ngày, mộ hơn được một vạn lính". Chỉnh đem quân tiến ra Bắc, nhanh chóng đập tan mọi kháng cự của Trịnh Bồng và Đinh Tích Nhưỡng, được Chiêu Thống đích thân ra khỏi thành đón tiếp.Tháng 12 năm Bính Ngọ, Chiêu Thống thứ nhất (1786), bèn bổ dụng Chỉnh là Đại tư đồ, phong tước Bằng trung công. Chiêu Thống từ đấy dựa cả vào Hữu Chỉnh. Chỉnh nắm binh quyền, dần dần ép Chiêu Thống cả trong việc bổ nhiệm quan chức, sắp đặt chính sự. Cương mục chép: “Chiêu Thống lại tìm cách giết Chỉnh, nhưng Vũ Trinh can ngăn, mới thôi. Chỉnh phong thanh biết chuyện, từ đó bỏ luôn cả lễ triều yết. Sau đó, cùng bộ hạ là Hoàng Viết Tuyển, Chỉnh lần lượt diệt các thế lực chống đối nhà Lê ở Bắc Hà. Tháng 11 năm Đinh Mùi, Chiêu Thống thứ nhất (1787). Quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự, nhưng trong trận đánh lớn trên sông Thanh Quyết, bị Văn Nhậm đánh tan. Hữu Chỉnh và Hữu Du chỉ kịp đem vài trăm quân chạy về Thăng Long.Tháng 12 năm đó, Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Lúc đi, thị vệ và các bầy tôi tản mát bỏ trốn hết. Vua lại phải cho người sang nhờ Hữu Chỉnh đi hộ giá. Khi vua đến Kinh Bắc, trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước, vốn đã bí mật đầu hàng Tây Sơn, đóng cửa thành cáo bệnh không đón. Vua cùng Hữu Chỉnh qua đò sông Nguyệt Đức, đi theo chỉ còn sáu, bảy người, lại bị bọn vô lại cướp mất áo bào. Tình cảnh hết sức thê thảm. Khi Chiêu Thống tới huyện Yên Dũng mới được tri huyện huyện ấy giúp đỡ, xin hộ giá, rồi dần dần khôi phục lại được lực lượng ở mạn Cao Bằng, Thái Nguyên.Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, nhưng thua trận, Nguyễn Hữu Du chết tại trận, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh, rồi bị Văn Nhậm xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Các bầy tôi khác đều tan tác hết.Sau đó, Chiêu Thống lẩn quất chạy trốn quân Vũ Văn Nhậm ở mạn bắc sông Nguyệt Đức, khi thì ở huyện Gia Định, lúc lại đi Chí Linh, Thủy Đường, Vị Hoàng.
Tháng
tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lại ra bắc, vào thành Thăng Long, bắt giết
Vũ Văn Nhậm, cho Ngô Văn Sở cai quản binh quyền, đặt Lê Duy Cận làm giám quốc
coi việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê.Trước kia, khi thái hậu là mẹ vua đến Cao Bằng,
bị các thế lực cát cứ địa phương uy hiếp, bầy tôi nhà Lê đã bảo vệ thái hậu và
con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng
đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện.
Nhà Thanh bèn nhân dịp đấy định thôn tính luôn An Nam. Cương mục viết: Vua
Thanh thuận cho, Sĩ Nghị bèn điều động quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân
Nam và Quý Châu kéo sang Đại Việt, sai Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống về tâu lại với
Chiêu Thống. Vua bấy giờ mới biết, bèn sai người đi đường tắt lên đón quân nhà
Thanh Quân Tây Sơn bỏ Thăng Long lui về giữ Tam Điệp. Tháng 10 năm Mậu Thân
(1788), quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đưa Chiêu Thống về Thăng Long. Nhà
Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam quốc vương. Kể từ đây, Chiêu Thống tin
tưởng hoàn toàn vào nhà Thanh. Việc chủ yếu của vua lúc đó là luận công những
người hộ giá và trị tội những người theo Tây Sơn. Ngoài ra, việc trong ngoài đều
trong tay Sĩ Nghị.Cương mục nhận xét:Tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung
(Nguyễn Huệ khi đó đã xưng hoàng đế) kéo quân ra Bắc Hà, chỉ một trận quét sạch
29 vạn quân Thanh, vua lại phải theo bại quân nhà Thanh chạy sang Trung Quốc.
Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ
Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà
không cho quân. Thân vương nhà Thanh là Phúc Khang An hứa giúp quân cho Chiêu
Thống, nhưng lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở
về. Tháng tư năm đó, theo lời tâu của Hòa Thân và Phúc Khang An, Càn Long phong
Nguyễn Huệ là An Nam quốc vương và nhận tiếp sứ của nhà Tây Sơn.Thế nhưng,
Chiêu Thống vẫn chưa thôi mộng phục quốc. Cương mục chép: Tháng 5 năm Nhâm Tý,
tức năm Càn Long thứ 57 (1792), con trai chết, Chiêu Thống thất vọng và chán nản,
lâm bệnh rồi qua đời ngày 16 tháng 10 (âm lịch) năm 1793 tại Yên Kinh. Nhà
Thanh chôn ông theo nghi thức tước công. Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi
Hoàng đế, mở đầu thời kỳ nhà Nguyễn, đã cho sứ giả sang thông hiếu và quy phục
nhà Thanh. Nhân đó các bầy tôi nhà Hậu Lê dâng biểu xin trở về nước nhà. Năm
1804, vua Gia Khánh nhà Thanh cho phép đưa linh cữu vua Lê, thái hậu và con
trai Chiêu Thống về nước. Tháng 11 cùng năm táng nhà vua ở lăng Bàn Thạch.Lê
Chiêu Thống bị giới làm sử đời sau phê phán gay gắt. Các tác giả Ngô gia văn
phái thân Tây Sơn trong tiểu thuyết “Hoàng Lê nhất thống chí” có viết: Tuy
nhiên, nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh thành lập ra sau đó, lại nhìn nhận khá rộng lượng
với Chiêu Thống.Hoàng đế Tự Đức có lời phê về Chiêu Thống, đại ý nói: "Nhà
vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn
uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương!
Vậy nên truy đặt tên thụy là “Mẫn Đế”.
Hồ Chí Minh và thuộc hạ
bao gồm cả Tập Đoàn Cộng Sản Việt Nam là tổng gồm cả Trần Ích Tắc và Lê Chiêu
Thống…
Đó là những con người mà phần “CON”
chiếm ưu thế hơn phần “NGƯỜI” vì vậy chúng cực kỳ tham quyền cố vị đã bán rẻ
lương tâm, bán rẻ Tổ quốc, ảo tưởng dựa vào ngoại bang để cầu vinh hưởng lạc...
một bài học cho “Nhân tình thế thái”...
Tiến Sỹ LÊ HIỂN DƯƠNG
Cựu Hiệu Trưởng ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
XIN ĐỪNG “MẠI QUỐC CẦU
VINH”!
Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung,
Lê Chiêu Thống, Nguyễn Sinh Cung (Già Hồ)
Những tên phản quốc tội đồ
Rước voi Tàu Khựa giày mồ cha ông!
Đặt quyền lợi Đảng, gớm không (!),
Lên trên quyền lợi non sông, giống nòi!
Dân vạn đại, Đảng nhất thời!
Buôn dân bán nước sống đời được sao?!
Thành Đô hội nghị năm nao
Linh, Mười, Đồng vẩu… hiến trao quan thày!
Thời Tân Bắc Thuộc đọa đày
Âm thầm lén lút Vẹm mày mở ra!
Lòng dân căm phẫn xót xa
Đảng hèn với giặc quyết chà đạp dân!
Sinh vi tướng, tử vi thần
Tướng nào đốn mạt ôm chân quân thù?!
Phùng Quang Thanh… “bốn tốt” ru
Với “mười sáu chữ”… ba-xu vàng khè!
Xấu hổ lấy rổ mà che
Kẻo thôi bộ đội cả bè nhục lây.
Vẹm đà hứa với quan thày
Không liên minh với thằng tây con đầm
Nào đâu thày phải bận tâm
Thủy chung thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
HỒ CÔNG TÂM
Lê Chiêu Thống, Nguyễn Sinh Cung (Già Hồ)
Những tên phản quốc tội đồ
Rước voi Tàu Khựa giày mồ cha ông!
Đặt quyền lợi Đảng, gớm không (!),
Lên trên quyền lợi non sông, giống nòi!
Dân vạn đại, Đảng nhất thời!
Buôn dân bán nước sống đời được sao?!
Thành Đô hội nghị năm nao
Linh, Mười, Đồng vẩu… hiến trao quan thày!
Thời Tân Bắc Thuộc đọa đày
Âm thầm lén lút Vẹm mày mở ra!
Lòng dân căm phẫn xót xa
Đảng hèn với giặc quyết chà đạp dân!
Sinh vi tướng, tử vi thần
Tướng nào đốn mạt ôm chân quân thù?!
Phùng Quang Thanh… “bốn tốt” ru
Với “mười sáu chữ”… ba-xu vàng khè!
Xấu hổ lấy rổ mà che
Kẻo thôi bộ đội cả bè nhục lây.
Vẹm đà hứa với quan thày
Không liên minh với thằng tây con đầm
Nào đâu thày phải bận tâm
Thủy chung thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
HỒ CÔNG TÂM
No comments :
Post a Comment