Hồi 4:30 chiều thứ sáu, mùng
1/11/1963, nghĩa là khoảng 3 giờ sau khi tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ, TT
Diệm gọi điện thoại cho đại sứ Lodge. Và đây là nôị dung cuộc nói chuyện lần
cuôí cùng giữa vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam vơí viên đại sứ Mỹ.
Đaị sứ Lodge: Tôi nghĩ rằng
tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi
có nghe thấy những tiếng súng nổ, nhưng không biết rõ thực hư. Vả lại bây giờ
là 4:30 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra một ý
kiến về vấn đề này.
Tổng thống Diệm: Nhưng chắc
chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một
vị quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận trên tất cả.
Đaị sứ Lodge: Dĩ nhiên ngài đã
làm bổn phận của ngài. Như tôi đã nói với ngài lần đầu tiên sáng hôm nay, tôi
khâm phục sự can đảm của ngài và khâm phục sự đóng góp to lớn của ngài đối với
quê hương của ngài. Không ai có thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những
gì ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn bản thân của ngài. Tôi
được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài
và em ngài bình yên đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe thấy nói
điều đó không?
Tổng thống Diệm: Không (ngừng
một lúc, TT Diệm nói tiếp) ngài có số điện thoại của tôi.
Đaị sứ Lodge: Vâng. Nếu tôi có
thể làm được điều gì cho sự an toàn bản thân của ngài, thì xin ngài cứ gọi tôi.
Tổng thống Diệm: Tôi đang tìm
cách lập lại trật tự.
Về cuộc nói chuyện nói trên
giữa TT Diệm và đại sứ Lodge chúng ta chỉ cần ghi nhận ba điểm sau đây:
Thứ nhất: cái bất lương của đại
sứ Lodgẹ Ông đã dối trá khi nói với TT Diệm: "Tôi nghĩ rằng tôi không được
thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy
tiếng súng nổ, nhưng không rõ thực hư".
Thứ hai: cái ngu dấu đầu hở
đuôi của nhà ngoại giao được coi là thượng thặng của Mỹ. Thật vậy, ở câu trên,
đại sứ Lodge vừa nói với TT Diệm rằng ông chỉ nghe thấy tiếng súng nổ, mà không
rõ thực hư. Thì ngay câu dưới ông lại nói với TT Diệm rằng: "Tôi được báo
cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em
ngài đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức".
Thứ ba: cái khí phách của TT
Diệm. Đến phút chót, và trong cơn nguy khốn, trước mặt ngoại bang, ông vẫn giữ
được thể thống của một người lãnh đạo quốc gia, và tư cách của vị tổng thống
một quốc gia có chủ quyền. Ông không hạ mình xuống xin ân huệ của ngoại bang.
Như tổng thống Marcos của Phi Luật Tân đã hạ mình xuống xin ân huệ của Mỹ, ngày
25/2/1986.
Hồi 5:30 chiều 1/11, tức là
khoảng một giờ sau cuộc điện đàm giữa TT Diệm và đại sứ Lodge, trung tướng Dung
văn Minh gọi điện thoại cho ông Diệm và đòi ông Diệm phải đầu hàng. Ông Diệm từ
chối không muốn nói chuyện với tướng Minh.
Hai giờ sau, tức là khoảng
7:30, tướng Minh lại gọi cho ông Diệm, ông Diệm lại từ chối không nói chuyện.
Tướng Minh rất tức giận về thái độ khinh bỉ của ông Diệm.
Khoảng 8 giờ chiều, tướng Minh
ra lệnh tấn công vào dinh Gia Long. Người được chọn để thi hành cuộc tấn công
là đại tá Nguyễn Văn Thiệu, một sĩ quan công giáo, lúc đó chỉ huy sư đoàn 5 bộ
binh.
Một điều mà nhóm đảo chánh đã
không ngờ đến, là khoảng 8 giờ chiều hôm đó, anh em ông Diệm đã lên một chiếc
xe hơi màu đen do ông Cao Xuân Vỹ lái, bí mật ra khỏi dinh Gia Long và đến tạm
trú tại nhà Hoa kiều Mã Tuyên.
Vào lúc 3 giờ sáng ngày 2/11,
đại tá Thiệu mở nhiều đợt tấn công với thiết giáp và pháo binh vào dinh Gia
Long. Nhưng các cuộc tấn công ấy đã bị đẩy lui. Những quân nhân trung thành với
ông Diệm đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mặc dù thua sút về quân số, vũ khí, mặc
dù không được tiếp tế và mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng. Cuối cùng, nhóm
đảo chánh đã phải cầu cứu trung tá Nguyễn cao Kỳ cho phi cơ phóng pháo lên bắn
phá thành Cộng Hòa để hỗ trợ quân đảo chánh và áp đảo tinh thần những binh sĩ
phòng thủ dinh Gia Long.
Hồi 5 giờ sáng ngày 2/11, binh
sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại
của ông Diệm.
Hồi 6:45, ông Diệm lại gọi điện
thoại. Người nghe điện thoại là thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Diệm cho
tướng Khiêm biết ông và ông Nhu hiện đang ẩn náu tại nhà thờ cha Tam, Chợ Lớn,
và yêu cầu đem xe đến đưa về bộ Tổng Tham Mưu gặp các tướng lãnh. Tướng Dương
văn Minh bèn cử thiếu tướng Mai hữu Xuân, đại tá Nguyễn văn Quang, đại tá Dương
ngọc Lắm, thiếu tá Dương hiếu Nghĩa và đại úy Nguyễn văn Nhung đem xe thiết
giáp đi rước những kẻ đầu hàng về bộ tổng tham mưu. Đoàn xe rời bộ tổng tham
mưu hồi 7:30. Tướng Đôn cho sửa soạn một căn phòng cho anh em ông Diệm, và mời
bác sỉ Đinh Xuân Minh đến "săn sóc cho Cụ".
Những gì xảy ra sau đó, đã được
sách vở báo chí cũng như lịch sử ghi chép đầy đủ. (xin qúy vị đọc bài "Bọn
Ác Ôn Côn Đồ" của Tú Gàn vừa post lên Net để biết rõ chi tiết diễn tiến
....bọn côn đồ phản loạn kia đã làm gì đối vởi anh em TT Diệm trên đường về từ
nhà thờ cha Tam trở về tổng tham mưu?)
Khoảng 8:30, chiếc xe thiết
giáp về đổ tại sân tổng tham mưu với hai xác chết trên sàn xe. TT Diệm đã bị
bắn đàng sau ót, ông Nhu bị bắn ở lưng và bị đâm nhiều nhát dao trên ngực. Hai
tay các nạn nhận đều bị trói quặt ra đàng sau lưng.
Cuộc đảo chánh 1963 đã kết thúc
bằng cái chết của ông Diệm và em ông, Nhu.
CHÁNH NGHĨA DÂN TỘC
Người ta đã suy nghĩ và đã viết
nhiều về cái chết đó.
Có người cho là quả báo nhãn
tiền: ông Diệm đã phạm tội ác đối với quốc gia dân tộc, ông Diệm phải đền tội.
Đó là cái nhìn của những kẻ ghét ông Diệm.
Những con chó phản chủ, chỉ vì 3 triệu đồng mà thảm sát Ngô Tổng Thống,,. để đang miền Nam cho CSBV |
Có người lại nghiêm khắc phê
phán nhóm tướng lãnh đảo chánh là mọi rợ, Ông Diệm đã ra đầu hàng, với sự thỏa
thuận của các tướng lãnh. Ông Diệm phải được đối xử như một kẻ đã đầu hàng. Nếu
nhóm tướng lãnh đảo chánh không coi ông Diệm là một tổng thống đầu hàng, thì ít
nhất cũng nên có cái mã thượng và phẩm cách của người quân nhân "thắng
trận" để đối xử với một hàng binh. Cùng lắm, họ có thể đưa ông Diệm ra
trước tòa án để công lý tùy nghi định tội. Tại sao lại phải giết một cách lén
lút và hèn hạ như vậy? Đó là cái nhìn của số đông, cái số đông gồm những kẻ
thương mến ông Diệm, cũng như những kẻ không thương mến nhưng không thù ghét
ông Diệm.
Nhưng, lịch sử có cái nhìn
riêng của nó. Cái chết của ông Diệm là một sự cần thiết. Nó mang ý nghĩa trọn
vẹn của một phủ định và một xác định. Nó phủ nhận và thẳng tay xóa bỏ gía trị
lịch sử và gía trị dân tộc của biến cố 1963, đồng thời xác định bản chất đích
thực của biến cố ấy, trước dân tộc và lịch sử. Thật vậy:
Biến cố ngày 1/11/1963 đã từng
được tôn vinh là một cuộc vùng lên của nhân dân miền Nam và của cái gọi là
"đại bộ phận của dân tộc VN". Vùng lên để lật đổ một bạo quyền.
Nhân dân vùng lên, vì anh em
ông Diệm là "những kẻ đại tội làm hư uế chánh nghĩa dân tộc và làm suy
nhược sức mạnh của miền Nam".
Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình
Diệm "phong kiến như vua, độc tài như cộng sản".
Nhân dân vùng lên, vì chế độ
Ngô Đình Diệm là "một chế độ dùng bạo lực thay chính trị, dùng khủng bố
thay vì giáo dục".
Nhân dân vùng lên, vì Ngô Đình
Diệm "độc tài dộc tôn độc đảng", và vì "suốt chín năm nhà Ngô và
đảng Cần Lao ngự trị tại miền Nam, ngoại trừ một thiểu số thống trị với tất cả
đặt quyền đặc lợi, còn thì nhân dân phải sống khổ nhục sợ hãi không khác gì
nhân dân miền Bắc đã sống dưới chế độ Tần Thủy Hoàng của Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản".
Nhân dân vùng lên, vì
"chín năm cai trị là chín năm bạo trị, 15 triệu đồng bào là gần 15 triệu
nạn nhân, quân đội và phong trào đấu tranh của Phật giáo chỉ là những lực lượng
có duyên và phương tiện để thi hành bản án mà gần 15 triệu đã tuyên án từ 9 năm
qua".
Nhân dân vùng lên, vì bạo quyền
Ngô Đình Diệm "đã tiến hành những chính sách tai hại không phải cho một
người mà cho cả một dân tộc", đã "dùng bạo lực để hủy diệt một tôn
giáo chỉ biết có tình thương" và "đã dùng gian trá để đem nữa phần
đất còn lại của dân tộc bán đứng cho CS miền Bắc"...
Trên đây là những nét chính,
tổng qúat hóa tội ác của họ Ngô và được liệt kê trong quyển VNMLQHT (trang 279,
232, 303, 305, 317, 330, 791, 793...) Vì những tội ác ấy, nhân dân đã phải vùng
lên.
Đó không phải là luận điệu của
riêng thằng chó phản chủ Đỗ Mậu, mà còn là luận điệu của cả cái tập đoàn đứng
sau lưng con chó xà mâu Đỗ Mậu, cũng là cái tập đoàn từng mệnh danh là
"đại bộ phận của dân tộc".
Trong những tháng ngày sau đảo
chánh, luận điệu trên dã trở thành chân lý của những kẻ làm đảo chánh, cũng như
của những kẻ hoan hô đảo chánh. Các tướng Tôn Thất Đính, Dương văn Minh, Trần
Thiện Khiêm, Đặng văn Quang, Lê văn Kim, Mai hữu Xuân, Trần văn Đôn, Đỗ Mậu
....vv... đã "anh dũng" đưa ra những lời tuyên bố lịch sử: "quân
đội lãnh sứ mạng của nhân dân, đứng lên lật đổ Ngô Đình Diệm, vì chế độ Ngô
Đình Diệm độc tài phản dân hại nước, và vì anh em họ Ngô bắt tay với Hà Nội để
dâng hiến miền Nam cho cộng sản".
Bản tuyên cáo chính thức của
hội đồng quân nhân cách mạng đọc ngày 2/11 cũng đã mở đầu bằng câu: "cuộc
cách mạng của toàn dân, thành công trong vinh quang, đã chấm dứt một chế độ độc
tài, tàn bạo, bất lực..... Đứng trước sự thối nát của chính quyền Ngô đình
Diệm, quân đội đã nhận thức sự cần thiết phải giải thóat đồng bào để tiến tới
một chế độ dân chủ thực sự, nên quân đội, dưới sự lãnh đạo của hội đồng quân
nhân cách mạng, đã cương quyết vùng lên...."
Bản tuyên cáo của chánh phủ lâm
thời VNCH cũng cùng một luận điệu đó. Và bản hiến ước tạm thời của chính quyền
"cách mạng" cũng đã mở đầu bằng lời ca tụng "cuộc cách mạng
chống độc tài đã hoàn toàn thành công với truyền thống hy sinh phục vụ tổ quốc
của quân đội VNCH để dành lại cho dân tộc nền dân chủ tự do..."
Nói tóm lại, Ngô Đình Diệm là
một tên trọng tội, một tên đại gian đại ác, một tên phản dân hại nước, một kẻ
Toan bán đứng miền Nam cho CS... Quyền lợi của quốc gia VN, và sự sống còn của
dân tộc VN đòi hỏi rằng tên đại gian đại ác ấy phải bị lật đổ và đền tội trước
quốc dân.
Đó là chính nghĩa được khoác
lên vai biến cố ngày 1/11/1963.
Câu hỏi được đặt ra: đã có
chính nghĩa dân tộc sáng ngời như vậy tại sao "cách mạng" 1963 lại
phải lén lút và hèn hạ cho người ám sát tổng thống Diệm trên chiếc xe thiết
giáp di chuyển từ nhà thờ cha Tam về bộ tổng tham mưu? Tại sao không đường
đường chính chính đem tên tội đồ Ngô Đình Diệm ra trước tòa, dù là tòa án nhân
dân - để xét xử và sau khi tòa tuyên án, hành quyết tên tội đồ trước khi mặt
trời mọc? Tại sao lại phải hành động lén lút và đê tiện nhưng những kẻ đâm thuê
chém mướn?
Chánh nghĩa dân tộc của cách
mạng để đâu? Liêm sỉ của cách mạng để đâu?
Khí phách của các tướng lãnh để
đâu?
LIÊM SỈ CÁCH MẠNG
Hồi 8:30 ngày 2/11/63, chiếc xe thiết giáp từ nhà thờ cha Tam trở về đỗ tại sân bộ tổng tham mưu.
Hồi 8:30 ngày 2/11/63, chiếc xe thiết giáp từ nhà thờ cha Tam trở về đỗ tại sân bộ tổng tham mưu.
Khi nhìn thấy hai xác chết bê
bết máu của anh em ông Diệm, các tướng đảo chánh đã hoảng hốt cực độ. Trong cơn
hốt hoảng đó, họ đã tuyên bố với báo chí rằng anh em ông Diệm đã tự sát. Nhưng
ngay sau đó, Lucien Conein nhắc cho họ biết rằng anh em ông Diệm là người công
giáo, vì vậy lời giải thích "anh em ông Diệm tự sát" sẽ chẳng được ai
tin và chỉ càng gieo thêm nghi ngờ. Các tướng lãnh bèn đổi giọng và tuyên bố
với báo chí rằng "đó là một cuộc tự sát vì rủi ro". Luận điện này đã
trở thành lập trường chính thức của hội đồng quân nhân cách mạng và của chính
quyền cách mạng.
Hiển nhiên, các tướng đảo chánh
đã nói dối. Nhưng vấn đề đặt ra: tại sao họ phải nói dối? Tại sao họ phải cúi
mặt không dám nhìn sự thật và phải che dấu sự thật?
Tướng Dương văn Minh là kẻ đã
ra lệnh cho đàn em giết ông Diệm để trừ hậu họa. Nhưng sau khi ông Diệm chết,
tướng Minh không dám nhìn nhận sự thật. Tướng Minh không phải là kẻ chiến bại,
mà là kẻ chiến thắng ông Diệm, đồng thời là chủ tịch hội đồng quân nhân cách
mạng và người hùng của cách mạng. Tại sao tướng Minh lại phải nói dối? Tại sao
lại phải hèn hạ?
Chưa hết. Tướng Dương văn Minh
chẳng những không dám nhìn nhận hành động của mình, mà còn tìm cách chối tội và
đổ lỗi cho người khác.
Trong cuốn Les Guerres du Viet
am và Our Endless Wars, trung tướng Trần văn Đôn đã viết như sau: "Big
Minh không bao giờ nhận trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm. Mỗi khi vấn
đề được nêu ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vàọ Trong thời gian bị lưu đày
tại Vọng Các, big Minh đã thanh minh với một linh mục công giáo rằng ông không
có trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn
biết rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi" (Our Endless Wars, trang 113).
Tướng Dương văn Minh, lãnh tụ
cuôc vùng dậy của nhân dân VN và của cái gọi là đại bộ phận dân tộc VN, đã phạm
hai cái hèn.
Ông Diệm đã ra đầu hàng, đã
được các tướng lãnh chấp nhận cho đầu hàng, và đã được các tướng lãnh cử người
đưa xe đến chở về đại bản doanh của cuôc đảo chánh. Nhưng tướng Minh đã lén lút
cho bộ hạ giết anh em ông Diệm trên xe thiết giáp. Đó là cái hèn thứ nhất.
Sau khi đã cho người ám sát ông
Diệm, tướng Minh đã không dám nhìn nhận hành động của mình. Đó la cái hèn thứ
hai.
Cái hèn của tướng Minh cũng là
cái hèn của nhóm tướng lãnh ngày 1/11/63, những kẻ không có chánh nghĩa hoặc
biết rằng mình không có chánh nghĩa, hoặc nghi ngờ về chánh nghĩa của mình. Bởi
vì: nếu họ có chánh nghĩa, nếu qủa thật họ đã vì dân vì nước tự động đứng lên
để diệt trừ một đai họa cho dân tộc, nếu qủa thât họ đã quân đội và cái
"đại bộ phận của dân tộc" đã vùng lên lật đổ một bạo quyền để cứu lấy
tổ quốc VN, thì việc giết ông Diệm phải được coi là một hành vi chánh đáng hợp
tình hợp lý hợp lòng dân và hợp lịch sử. Và những kẻ đã ra tay giết ông Diệm có
quyền tự hào về hành vi đó.
Còn gì chánh đáng hơn là thay
mặt nhân dân diệt trừ một tên phản quốc, và diệt trừ mọi mầm mống phản loạn sau
này? Diệt trừ bằng thủ đoạn giết lén tuy không đường đường chính chính như diệt
trừ bằng một bản án tử hình của tòa án, nhưng xét cho kỹ, cũng không có gì đáng
hổ thẹn. Cách mạng nào mà không đổ máu? Cách mạng nào mà không giết? Mà giết
thì đã sao? Nhất là giết một tên "đại gian đại ác, tội đồ của dân
tộc".
Thế thì tại sao lại phải nói
dối, tại sao phải chối tội và tìm cách đổ tội cho người khác?
Câu trả lời là: những kẻ đó
không có chánh nghĩa. Vì vậy phải hèn hạ, phải giết lén, phải nói dối, phải
chối tội và đổ tội lẫn cho nhau.
KHÍ PHÁCH TƯỚNG LÃNH
KHÍ PHÁCH TƯỚNG LÃNH
Tại sao các tướng lãnh không có
được cái khí phách tối thiểu và tinh thần liên đới trách nhiệm để tuyên bố
rằng: ông Diệm có tội với dân tộc, cách mạng đã giết ông để trừ hậu họa. Nếu
không được cái khí phách tối thiểu đó, thì ít nhất cũng phải có được cái liêm
sĩ tối thiểu để nói sự thật với quốc dân. Nói rằng: ông Diệm đã bị giết ngoài ý
muốn và ngoài dự liệu của các tướng đảo chánh.
Tại sao lại lừa bịp quốc dân và
sống sượng nói dối rằng người chết đã tự sát?
Là vì: họ không có chánh nghĩa,
không kết hợp và hành động vì chánh nghĩa, vì vậy đã phải nói dối, nói quanh,
chối tội và đổ tội lẫn cho nhau. Thật là mỉa mai: người sống sợ người chết, và
kẻ thắng trận sợ kẻ bại trận. Đúng là một lũ đầy tớ giết chủ như trung tướng
Nguyễn chánh Thi đã nhận định một cách sâu sắc. Và giết chủ rồi, lũ đầy tớ nhìn
nhau, lo sợ.
Vẫn chưa hết. Trong cuốn Our
Endless War và Les Guerres du Vietnam, tướng Trần văn Đôn còn viết rằng:
"trưa mùng 2/11, xác hai anh em ông Diệm được di chuyển về bệnh viện Saint
Paul. Sáng hôm sau, ông Minh và tôi đến viếng thăm ông bà Trần Trung Dung tại
nhà. Bà Dung là cháu ruột ông Diệm. Ông Minh nói với bà Dung: chúng tôi đến đây
không phải chia buồn. Chúng tôi hy vọng bà hiểu cho rằng cái chết của ông Diệm
và ông Nhu đã xảy ra như là một sự ngẫu nhiên đáng tiếc lúc cuộc đảo chánh đang
tiến hành. Chúng tôi rất buồn, nhưng bây giờ sự viêc đã xảy ra, chúng tôi không
thể làm gì được nữạ Chúng tôi mong bà thu xếp lo viêc chôn cất" (Our
Endless War, trang 111).
Một lân nữa, tướng Dương văn
Minh lại nói dối, lại chối tội. Lúc này ông không còn là trung tướng Dương văn
Minh nữa, mà là đại tướng Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách
mạng, quốc trưởng của nước VN, và "người hùng" của dân tộc. Ông không
chối tội trước quốc dân, trước báo chí, hoặc trước đám đông, mà chối tội trước
người cháu gái cua ông Diệm.
Tướng Minh nói rằng cái chết
của anh em ông Diệm đã xảy ra như một sự tình cờ ngẫu nhiên. Sự dối trá thật là
trắng trợn. Cái chết của anh em ông Diệm đã không xảy ra như một sự tình cờ, mà
đã xảy ra theo kế hoạch của tướng Minh và với mệnh lệnh của tướng Minh.
Tướng Minh còn nói răng "cái
chết ấy đã xảy ra trong lúc cuộc đảo chánh đang tiến hành". Tướng Minh lại
nói dối. Anh em ông Diệm đã bị giết trên chiếc xe thiết giáp do chính các tướng
lãnh đảo chánh gửi đến để đón ông về bộ tổng tham mưu. Lúc đó, cuộc đảo chánh
đã chấm dứt. Chấm dứt từ lâụ Lúc đó các tưởng đảo chánh đã bắt đầu ăn mừng
"cách mạng thành công" và bắt đầu chia tiền.
THẰNG HÈN VÀ THẰNG
NÓI LÁO
Năm 1971 là năm bầu cử tổng
thống nhiệm kỳ hai. Đại tướng Dương văn Minh nạp đơn ứng cử. Vấn đề giết ông
Diệm lại được đặt ra. Một quyển sách mang tên "Làm Thế Nào Để Giết Một
Tổng Thống" xuất hiện. Báo chí lai khơi đống tro của lịch sử, và những
người trong cuộc đã có dịp lên tiếng về cái chết của ông Diệm.
Ứng cử viên tổng thống Dương
văn Minh, trong nhiều cuộc phỏng vấn, tuyên bố rằng ông Thiệu phải chịu trách
nhiệm về cái chết của anh em ông Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Ứng cử viên
Dương văn Minh nói: "Thiệu, lúc đó một đại tá tham gia cuộc đảo chánh, đã
không đem quân vào dinh tổng thống đúng thời điểm để ngăn chặn Ngô Đình Diệm
trốn thoát". Theo ông Minh, nếu anh em ông Diệm bị bắt giữ ngay trong dinh
Gia Long, họ đã không bị giết. (Tài liệu ngày 20/7/71 về VN tại thư viện quốc
hội Mỹ ghi như sau: "Minh said Thieu, then a colonel who had participated
in the coup, had failed to bring his trơps to the presidential palace in time
to prevent Diem trom escaping. Minh held that if Diem and his brother had been
taken into custody at the palace they would not have been murdered”).
Ứng cử viên đương kim tổng
thống Nguyễn văn Thiệu, khi thấy tướng Minh liên can mình vào vụ ám sát ông
Diệm, đã chửi tướng Minh là thằng hèn và thằng nói láo.
Ông Thiệu nói: lúc đó ông được
tướng Trần thiện Khiêm, bây giờ là thủ tướng cho biết Dương văn Minh đã nói với
ông ta (tức Trần thiện Khiêm) rằng: đảo chánh phiền phức và khó khăn quá, chi
bằng áp dụng phương thức dễ nhất, là ám sát Diệm. (tài liệu ngày 20/7/71 ghi
như sau: Thieu called Minh a coward and a liar when linking him to the Diem
assassination... Thieu said at the time he had been informed by gen. Tran thien
Khiem, now premier, that Minh had told him the coup was so complicated and
difficult that the easiest way is to assassinate Diem).
Hồ sơ lưu trữ tại thư viện quốc
hội Hoa Kỳ ngày 20 và 21/7/71 có ghi rõ những lời nói trên của đại tứơng Dương
văn Minh, kèm theo lời của đương kim tổng thống VN Nguyễn văn Thiệu gọi cựu
quốc trưởng VN Dương văn Minh, chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng, là
"thằng hèn và thằng nói láo".
Tướng Nguyễn văn Thiệu chửi
tướng Dương văn Minh là thằng hèn và thằng nói láo. Lời chửi sâu sắc và xác
đáng này cũng có thể dùng để nói về toàn thể hội đồng quân nhân cách mạng 1963,
trong đó có tướng Thiệu, trong vụ ám sát ông Diệm va giải thích cái chết của
ông Diệm.
Quả thật ông Diệm đã được phục
thù trước lịch sử. Bởi chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ đã lật đổ và giết
ông. Kẻ thắng trận phải run phải sợ cúi mặt trước kẻ bại trận. Và đổ tội lẫn
cho nhau, nguyền rủa lẫn nhau.
Ông Diệm đã được phục thù trước
lịch sử. Chính cái gian dối hèn hạ của những kẻ giết ông đã phơi bày thực chất
của nhóm người làm đảo chánh và phơi bày cái ý nghĩa đích thực của biến cố
1963. Một nhóm người không có chính nghĩa. Một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ
xướng và để phục vụ mưu đồ của ngoại bang. Một "lũ đầy tớ giết chủ"
như lời nhận định của tướng Nguyễn Chánh Thi Một vụ "giết mướn, như lời
phê phán của nhà văn quân đội Nguyễn Đạt Thịnh.
BA TRIỆU ĐỒNG (VN)
CỦA CIA
Như đã trình bày ở chương 6 về cuộc đảo chánh, ngày 30/10/1963 tức là hai ngày trước khi cuộc đảo chánh bùng nổ, đại sứ Lodge đã gửi về tòa Bạch Ốc một công điện gồm 13 điểm. Điểm 11, đại sứ Lodge đề cập đến lời yêu cầu của các tướng đảo chánh muốn có một số tiền để "mua chuộc phe chống đối".
Như đã trình bày ở chương 6 về cuộc đảo chánh, ngày 30/10/1963 tức là hai ngày trước khi cuộc đảo chánh bùng nổ, đại sứ Lodge đã gửi về tòa Bạch Ốc một công điện gồm 13 điểm. Điểm 11, đại sứ Lodge đề cập đến lời yêu cầu của các tướng đảo chánh muốn có một số tiền để "mua chuộc phe chống đối".
Theo các tài liệu còn lưu trữ
tại thư viện quốc hội Mỹ, thì hôm đảo chánh Lucien Conein đã đến bộ ổng tham
mưu trao một gói bạc ba triệu bạc VN ($3,000,000 đồng) cho tướng Trần văn Đôn,
gọi là để "mua chuộc phe chống đối nếu cần".
Trong quyển VNMLQHT, ông Đỗ Mậu
cũng viết: "Conein bèn mặc quân phục mang theo một khẩu 375 Magnum và một
gói tiền độ 3 triệu đồng bạc rồi đến bộ tổng tham mưu". Nhưng ông ĐM không
biết rõ mục đích và số phận của số tiền đó. Vì vậy, ông viết tiếp: "cũng
cần nói rõ rằng số tiền ba triệu đồng VN do Conein mang đến đã không được một
tướng lãnh nào hay biết trừ tướng Đôn. Tướng Đôn không bao giờ trình bày cho
hội đồng tướng lãnh biết có nhận số tiền đó của Conein hay không, và nếu có thì
đã xử dụng vào việc gì". (trang 816).
Trong quyển Việt Nam Nhân
Chứng, tứơng Đôn nhình nhận có đươc Conein trao cho số bạc ba triệu, và ông đã
"tặng cho các bạn", chứ không bỏ vào túi. Ông viết: "Đúng 1:30
trưa, ông Conein vào có mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc vơi
đại sứ Mỹ và một bao tiền ba triệu bạc VN. Đảo chánh vừa thành công, trong
không khí rộn ràng đó, tôi có tặng cho các gạn một số tiền ủy lạo binh sĩ đơn
vị mà không đòi làm biên nhận đầy đủ. Đến năm 1971, tôi ra lệnh cho thiếu tá
Đặng văn Hoa tìm lục lai các biên nhận về việc ghi số tiền ba triệu bạc của
Conein, thì th/tá Đặng văn Hoa làm tờ trình và một số các biên nhận. Tôi xin
đính kèm theo đây để chứng minh. Tôi không tổ chức đảo chánh để kiếm số bạc như
vậỵ Vì lúc đó mấy triệu bạc VN đối với tôi không phải là số tiền mà tôi khao
khát" (VN Nhân Chứng, TVD, trang 211).
Viết như vậy, tướng Đôn đã muốn
thanh minh cho sự trong sạch của ông. Nhưng ông đã làm một công việc thừa thãị
Bởi lẽ: không ai kết tội tướng Đôn nhận tiền của Mỹ để bỏ vào túi riêng. Người
ta kết tội các tướng đảo chánh đã làm như nhuốc cuộc đảo chánh, và làm nhơ
nhuốc Quân Lực VNCH. Người ta kết tội các tướng lãnh đã xử sự như những tay sai
của Mỹ, trong vụ lật đổ ông Diệm năm 1963.
Chúng ta hãy đọc kỹ phiếu đệ
trình của th/tá Hoa, được tướng Đôn công bố và đính kèm trong phần phụ lục của
quyển VN Nhân Chứng của ông, để có một ý niệm.
Phiếu đệ trình, ngày 14 tháng 8 năm 1971
Phiếu đệ trình, ngày 14 tháng 8 năm 1971
Trích yếu: Về số bạc ba triệu
đồng của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị trong ngày Cách mạng
1/11/63.
Kính thưa trung tướng,
Số bạc 3 triệu đồng của ông
Conein cho mượn thì đã được trung tướng chỉ thị cấp cho những người sau đây:
Ngày 1/11/63, T/T/TMT Trần
thiện Khiêm nhận ...... 500,000 $
(do đạI tá Đặng văn Quang làm biên nhận)
(do đạI tá Đặng văn Quang làm biên nhận)
Ngày 1/11/63, T/T Tôn Thất Đính
tư lệnh quân đoàn 3 nhận .... 500,000 $
(do đại úy Phạm viết Hùng nhận)
(do đại úy Phạm viết Hùng nhận)
Ngày 10/11/63, TT Tôn thất Đính
có nhân thêm .............. 100,000 $
Ngày 4/11/63, tặng sư đoàn 5
.................................. 50,000 $
(do đại tá Nguyễn văn Thiệu nhận)
(do đại tá Nguyễn văn Thiệu nhận)
Ngày 5/11/63, tặng liên đoàn
thủy quân lục chiến của đại tá Lê nguyên Khang ... 100,00$ (do đại úy Quế nhận)
Ngày 5/11/63, đại tá Trần ngọc
Huyến thị trưởng Đàlạt nhận......100,000 $
Ngày 9/11/63, thiếu tá Phan hòa
Hiệp trường thiết giáp nhận .....100,000$
Ngày 19/11/63, đại úy Đào ngọc
Diệp câu lạc bộ tổng tham mưu nhận 100,000$
Tổng
cộng... 1,550,000$
Tất cả số tiền 1,550,000 $ trên
đây đều có biên nhận (đính kèm). Như vậy còn lại 1,450,000 $, trung tướng cũng
tặng cho anh em nhưng không có chữ ký biên nhận. Nếu tôI nhớ không lầm thì
trung tướng đã tặng cho các ông sau đây:
Trung tướng Dương văn Minh
Trung tướng Lê văn Kim
Trung tướng Tôn thất Đính
Thiếu tướng Nguyễn hữu Có
Thiếu tướng Trần ngọc Tám
Trung tướng Nguyễn Khánh
Trung tướng Đỗ cao Trí
Trung tướng Lê văn Kim
Trung tướng Tôn thất Đính
Thiếu tướng Nguyễn hữu Có
Thiếu tướng Trần ngọc Tám
Trung tướng Nguyễn Khánh
Trung tướng Đỗ cao Trí
Ngày 14 tháng 8 năm 1971
Ký tên
Hoa
Ký tên
Hoa
Đọc phiếu trình trên đây, người
ta thấy rõ số tiền ba triệu đã được tuớng Đôn chia ra làm haị Một nửa
"tặng" cho các đơn vị đảo chánh gọi là tiền ủy lạọ Một nữa
"tặng" cho các bạn !
Trong những ngườI nhận tiền
"ủy lạo", tướng Trần thiện Khiêm, tham mưu trưởng QLVNCH, nhận
500,000$. Tướng Tôn thất Đính, tư lệnh quân đoàn 3 kiêm tổng trấn Saigon-Gia
Định, nhận 600,000$. Số còn lại chia cho sư đoàn 5, liên đoàn thủy quân lục
chiến, trường thiết giáp, câu lạc bộ tổng tham mưu và đại tá thị trưởng Dalat,
Trần ngoc Huyến.
Trong những người được
"tặng" tiền, có các tướng Dương văn Minh, Lê văn Kim, Tôn Thất Đính,
Nguyễn hữu Có, Trần văn Tám, Nguyễn Khánh, Đỗ cao Trí (riêng tướng Dương văn
Minh còn được hưởng số bạc 6 ngàn Mỹ kim lấy được trong chiếc cặp của TT Diệm).
Nói tóm lại: tất cả tướng tá có
quân hoặc có công tham dự
và cuộc đảo chánh, đều được "ủy lạo" hoặc "tặng tiền". Nói cách khácc: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng (tặng). Và đây là điều quan trọng: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng bằng tiền của CIA, do đích thân CIA đưa đến.
và cuộc đảo chánh, đều được "ủy lạo" hoặc "tặng tiền". Nói cách khácc: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng (tặng). Và đây là điều quan trọng: cuộc đảo chánh năm 1963 đã được ủy lạo và tưởng thưởng bằng tiền của CIA, do đích thân CIA đưa đến.
Vấn dề đặt ra: các tướng đảo
chánh đã xin tiền, hay chính người Mỹ đã tự động đem đến?
Theo như công điện ngày
30/10/63 của của đ/s Lodge gửi cho cố vấn an ninh tòa Bạch Ốc thì các tướng đảo
chánh đã "yêu cầu" được có một số tiền để dùng vào việc mua chuộc phe
chống đối, nếu cần. Điểm 11 của công điện viết như sau: "As to requests
from the Generals, they may well have need of funds at the last movnent with
which to buy off potential opposition". Tạm hiểu như sau: Theo lời yêu cầu
của các tướng lãnh, họ có thể cần một số tiền vào phút chót để mua chuộc (những
kẻ) chống đối có thể xuất hiện.
Tức là: các tướng lãnh đảo
chánh đã xin tiền. Và xin tiền với danh nghĩa để mua chuộc phe chống đối (các
sĩ quan còn trung thành với ông Diệm).
Theo những cuốn hồi ký của tướng
Đôn (Our Endless War, Les Guerres du Vietnam, và Nhân Chứng VN), thì cuộc đảo
chánh năm 1963 là một "vấn đề hoàn toàn nội bộ của VN". Tướng Đôn đã
vô tình hay hữu ý không biết đến nội dung bức công điện của đại sứ Lodge về vấn
đề các tướng đảo chánh đã xin tiền. Ông mô tả Lucien Conein như một bà phước tự
động đem tiền đến cho các tướng xử du.ng. Trong cả hai trường hợp (các tướng
xin tiền, hoặc Conein tự động đem tiền đến), việc cung cấp số bạc ba triệu đã
được chính quyền Mỹ sắp đặt và quyết định trước. Rất có thể các tướng đảo chánh
đã xin, cũng rất có thể các tướng lãnh đã không xin. Nhưng trong cả hai trường
hợp, họ đã ngửa tay ra nhận !
Hành động ngửa tay nhận tiền
của các tướng đảo chánh đã làm nhơ nhuốc cuộc đảo chánh. Họ đã làm nhục chính
họ, điều đó không quan hê.. Họ đã sỉ nhục Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ..!!
Phiếu đệ trình phát tiền do
tướng Đôn công bố có nhiều điều làm cho người ta phải thắc mắc.
1/ Trích yếu của phiếu trình có
ghi: "về số bạc ba triệu bạc của ông Conein cho mượn để thù lao các đơn vị
trong ngày cách mạng 1/11/63.
Trước hết, số bạc ba triệu đồng
(VN) đã do chính quyền Mỹ cung cấp, chứ không phải tiền ông Conein cho mượn.
Điều này không cần phải chứng minh, nó đã đi vào lãnh vực hiểu biết công cộng,
cũng như đã được các tài liệu của Mỹ xác nhận. Thâm tâm các tướng Đôn, Minh,
Đính, Kim Khiêm cũng biết điều đó. Vậy thì, tại sao trong phiếu trình lại ghi
là tiền ông Conein cho mượn? Và nếu là tiền ông Conein cho mượn thì các tướng
đảo chánh đã trả lại cho ông Conein chưa? Nếu trả rồi, chắc chắn tướng Đôn sẽ
thấy có bổn phận phải xuất trình bằng chứng, cũng như ông đã thấy có bổn phận
phải xuất trình bằng chứng về sự chi tiêu số bạc.
Thứ đến, phiếu trình ghi rằng
số tiền ấy dùng để thù lao các đơn vị trong ngày cách mạng 1/11/63. Thù lao là
trả công. Tại sao lại ghi như vậy? Người ta lại nghĩ rằng tướng Đôn đã không
đọc kỷ phiếu trình, trước khi công bố.
Những chi tiết nói trên không
nên có trong phiếu trình. Dư luận đã từng cười ra nước mắt, nay một lân nữa lại
phải cười ra nước mắt, và thương hại cho cái gọi là cuộc cách mạng 1963.
2/ Phiếu trình của thiếu tá Hoa
đề ngày 14/8/1971, tức là gần 8 năm sau cuộc đảo chánh. Traong quyển VN Nhân
Chứng, tướng Đôn cũng đã viết rõ: năm 1963, ông tặng tiền mà không làm biên
nhận, đến năm 1971, ông mới ra lệnh cho thiếu tá Hoa tìm lại các biên nhận và
lập phiếu trình.
Cau hỏi được đặt ra: lý do nào
đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu trình về số bạc đã chi tiêu
năm 1963?
Như chúng ta đã biết: năm 1971
là năm bầu cử tổng thống nhiệm kỳ 2. Năm đó, tướng Dương văn Minh ra ứng cử:
vấn đề ông Diệm và cuộc đảo chánh 1963 lại được đặt ra trước công luận. Và như
trên đã trình bày, ngày 20 và 21 tháng 7 năm đó, hai ông Nguyễn văn Thiệu và
Dương văn Minh chửi lộn nhau về cái chết của ông Diệm.
Năm 1971 cũng là năm bầu cử Hạ
Nghị viện khóa 2. Ngày bỏ phiếu là 30/8/1971. Tướng Trần văn Đôn ra tranh cử
dân biểu tại đơn vị Quảng Ngãị Và ông đắc cử. Những sự việc nói trên có thể trả
lời cho câu hỏi: lý do nào đã thúc đẩy tướng Đôn năm 1971 phải cho lập phiếu
trình về số bạc ba triệu đã chi tiêu năm 1963,
Tôi muốn nói với các tướng đảo
chánh và những kẻ vẫn lớn tiếng ca ngợi biến cố 1963 và cuộc vùng dậy của đại
bộ phận dân tộc rằng: hãy có can đảm nhìn vào sự thật. Biến cố ngày 1/11/1963
chỉ là một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ mưu và nhằm phục vụ quyền lợi của
ngoại bang. Cuộc tạo phản ấy đã được thi hành bởi những tay sai bản xứ. Những
kẻ này đã ngửa tay nhận tiền của ngoại bang. Và: đảo chánh xong rồi, họ đã chia
nhau số tiền ấy, mặc dù chẳng được bao nhiêu.
Thật là nhục ! Nhục cho những
tướng lãnh đảo chánh. Nhục cho cuộc đảo chánh. Và nhục lây cho cả Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà. (Việt Nam Chính Sử, Nguyễn Văn Chức, trang 86-95)
(Aladin Nguyen)
No comments :
Post a Comment